Tạng phế có chức năng chủ hô hấp, thống điều thủy đạo có quan hệ mật thiết với tỳ. Tạng phế có chức chủ tuyên phát, túc giáng có mối quan hệ mật thiết với can. Tạng phế còn có mối quan hệ chặt chẽ với tạng tâm đông thông hành khí huyết trong lòng mạch. Ngoài ra còn quan hệ chặt chẽ với chức năng nạp khí của Thận.
Mối liên hệ này giúp cho các tạng phủ trao đổi, liên lạc với nhau để cân bằng âm dương. Dưới đây là phần trình bày nội dung về mối liên hệ giữa tạng phế với tạng tỳ, tạng can, tạng thận, tạng tâm. Kính mời bạn đọc cùng Phòng khám Tuệ Y Đường tìm hiểu về vấn đề này nhé!
1. TẠNG PHẾ – TẠNG TỲ
Tạng Phế quản hô hấp và nhiếp nạp thanh khí, chủ thông điều thủy đạo. Tỳ chủ vận hóa mà hóa sinh cốc khi, chủ vận hóa thủy dịch. Biểu hiện chủ yếu trong mối quan hệ tạng phế – tạng tỳ là sinh thành khí và trao đổi thủy dịch.
1.1. Sinh thành khí
- Tạng phế chủ hô hấp, hít vào thanh khí ở tự nhiên. Tỳ chủ vận hóa, hấp thu tinh khí (cốc khí) của thủy cốc. Tinh khí và cốc khi kết hợp thành khí của cơ thể và là cơ sở vật chất chủ yếu của tông khí. Tỳ hóa sinh tinh khí thủy cốc, lại dựa vào phế khí tuyên giáng mới phân bố đi toàn thân.
- Phế cần thanh khí để duy trì hoạt động sinh lý và lại dựa vào tỳ vận hóa tinh vi thủy cốc để nuôi dưỡng. Cho nên nói phế chủ khí, tỳ là nguồn sinh khí. Dưới tác dụng hiệp điều của tỳ phế mới đảm bảo được khí của cơ thể, đặc biệt là sinh thành và phân bố tông khí.
- Trong bệnh lý thì phế khí hư ảnh hưởng đến tỳ (tử bệnh phạm mẫu), tỳ khí hư ảnh hưởng đến phế (mẫu bệnh cập tử) và cuối cùng gây tỳ phế lưỡng hư.
1.2. Trao đổi thủy dịch
- Trao đổi thủy dịch ảnh hưởng rất lớn đến chức năng sinh lý của tạng phủ. Ở góc độ phế tỳ thì phế chủ tuyên giáng để thông điều thủy đạo làm thủy dịch phân bố và bài tiết bình thường.
- Tỳ chủ vận hóa, làm cho tân dịch hình thành và phân bố bình thường. Tân dịch trong cơ thể, do tỳ đưa lên phế, thông qua chức năng tuyên giáng của phế để phân bố toàn thân và đưa xuống bàng quang. Hai tạng phế tỳ phối hợp hiệp điều là điều kiện trọng yếu để hình thành, phân bố và bài tiết tân dịch bình thường.
- Nếu tỳ mất kiện vận, thủy dịch không hóa, tụ thấp sinh đàm thành ẩm, thành thũng sẽ làm ảnh hưởng đến tuyên giáng của phế gây ho, khạc đờm, khó thở. Bệnh này thuộc bản hư tiêu thực, bản thuộc tỳ, tiêu thuộc phế. Vì thế, có thuyết nói: tỳ là nguồn sinh đàm, phế là cơ quan trữ đàm.
Bạn đọc có băn khoăn hay thắc mắc gì thì có thể liên hệ trực tiếp qua Hotline – 0789.502.555 để được hỗ trợ nhé!
2. TẠNG PHẾ – TẠNG CAN
- Tạng Phế chủ túc giáng, can chủ thăng phát. Mối quan hệ phế – can thì can chủ vẫn yếu biểu hiện ở phương diện điều tiết hiệp đồng thăng giáng khí cơ của cơ thể.
- Đặc điểm thăng giáng khí cơ của phế can: Can khí chủ thăng phát, phế khí chủ túc giáng là thuận. Can thăng, phế giáng hiệp điều là tác dụng điều tiết trọng yếu để khí cơ toàn thân thông thoát, khí huyết điều hòa. Ngoài ra, phế khí sung túc, túc giáng bình thường thì giúp cho can khí thăng phát. Can khí sơ tiết, thăng phát điều đạt lại giúp cho phế khí túc giáng.
- Nếu uất hóa hỏa làm tổn thương phế kim gây chứng can hỏa phạm phế: Tức ngực, ho, thậm chí ho ra máu (theo ngũ hành gọi là chứng mộc hỏa hình kim, mộc vượng vũ kim). Phế mất thanh túc, táo nhiệt nội thịnh sẽ làm can khí sơ tiết mất điều đạt gây nên tình trạng phế bệnh cập can: đau đầu, dễ cáu giận, căng tức ngực sườn, hoa mắt, chóng mặt, mặt đỏ, mắt đỏ, ho, khó thở…
3. TẠNG PHẾ – TẠNG THẬN
Tạng Phế là nguồn trên của thủy, có chức năng chủ hô hấp, trong ngũ hành thuộc kim và có mối quan hệ kim sinh thủy; thận có chức năng chủ thủy, chủ nạp khí, trong ngũ hành thuộc thủy. Mối quan hệ chủ yếu của phế thận biểu hiện ở trao đổi thủy dịch, vận động hô hấp, âm dịch tương hỗ tư sinh.
3.1. Trao đổi thủy dịch
- Phế chủ thông điều thủy đạo, là nguồn trên của thủy; thận chủ quản khí hóa, chủ thủy dịch. Chức năng của phế chủ tuyên phát, túc giáng để hành thủy và dựa vào chưng đốt khí hóa của thận khí, thận âm.
- Thận lại chủ khí hóa để thăng giáng thủy dịch, có chức năng chủ việc đóng mở và cũng dựa vào chức năng tuyên giáng của phế. Chỉ khi phế thận hiệp đồng thì mới duy trì được phân bố và bài tiết thủy dịch trong cơ thể được bình thường. Nếu rối loạn chức năng phế thận sẽ làm cho trao đổi thủy dịch bị trở ngại gây chứng thủy thũng.
Bạn đọc có băn khoăn hay thắc mắc gì thì có thể liên hệ trực tiếp qua Hotline – 0789.502.555 để được hỗ trợ nhé!
3.2. Vận động hô hấp
- Phế chủ khí, quản hô hấp; thận tàng tinh, chủ nạp khí. Vận động hô hấp của con người do phế là chủ nhưng lại cần dựa vào tác dụng nạp khí của thận. Khi tinh khí của thận sung thịnh, chức năng tàng trữ bình thường thì phế hít thanh khí rồi thông qua túc giáng của phế mà nạp ở thận để duy trì độ sâu của hộ hấp.
- Vì vậy, trong quá trình vận động hô hấp, phế khí túc giáng sẽ giúp ích cho thận nạp khí; thận khí sung thịnh, nhiếp nạp hiệp điều thì cũng giúp ích cho phế túc giáng. Vì thế mà nói phế là chủ khí, thận là gốc của khí (phế vi khí chi chủ, thận vi khí chi căn)
- Nếu phế khí hư, rối loạn chức năng túc giáng, kết hợp với thận khí bất túc, rối loạn nhiếp nạp thì luôn làm ảnh hưởng lẫn nhau, gây chứng thận bất nạp khí: hụt hơi, thở nhanh nông, thở ra nhiều mà hít vào ít, vận động là khó thở.
3.3. Âm dịch tương hỗ tư sinh
- Phế thận âm có tác dụng tương hỗ tư sinh. Phế thuộc kim và thận thuộc thủy, kim sinh thủy và thủy nhuận kim. Phế âm sung túc sẽ chuyển chất tinh về thận làm cho thận âm sung thịnh.
- Thận âm là gốc âm khí toàn thân; thận âm sung thịnh sẽ tư dưỡng lên phế làm cho phế âm sung túc. Trên lâm sàng, phế âm hư có thể tổn thương đến thận âm, ngược lại, thận âm hư sẽ không tư dưỡng được phế âm. Vì thế, sẽ xuất hiện chứng phế thận âm hư: gò má đỏ, cốt chưng triều nhiệt, đạo hãn, ho khan, âm khàn, đau lưng, mỏi gối..
>>>>>> CÙNG TÌM HIỂU THÊM VỀ CHỨC NĂNG TẠNG THẬN
4. TẠNG PHẾ – TẠNG TÂM
- Tạng Tâm phế đều thuộc thượng tiêu. Tạng Tâm chủ huyết, chủ hành huyết; phế chủ khí, chủ hô hấp. Mối quan hệ tạng tâm – tạng phế chủ yếu biểu hiện trong quan hệ hiệp đồng điều điều tiết giữa vận hành huyết dịch và nhịp hô hấp.
- Tạng Tâm chủ huyết toàn thân, tạng phế chủ khí toàn thân. Khí huyết hiệp điều để đảm bảo vận hành khí huyết bình thường, duy trì trao đổi thay cũ đổi mới ở tổ chức cơ quan tạng phủ.
- Huyết dịch vận hành bình thường phải dựa vào sự khua động của tâm khí, phân bố của phế khí. Tạng Phế triều bách mạch, tăng cường tác dụng tâm hành huyết là điều kiện tất yếu để huyết dịch vận hành bình thường. Huyết dịch tuần hoàn bình thường mới duy trì được chức năng tạng phế chủ khí.
- Do “tông khí” có chức năng phụ trách tâm mạch và quản hô hấp nên mới hiệp điều bình hằng giữa tuần hoàn huyết dịch và hô hấp. Vì vậy, trung tâm tuần hoàn liên kết tâm – phế chủ yếu là “tông khí” tích ở trong ngực.
- Nếu phế khí hư nhược không hành được huyết, phế mất tuyên túc làm phế khí ủng trệ thì đều ảnh hưởng đến chức năng hành huyết của tâm và gây nên chứng tâm huyết ứ (tức ngực, rối loạn nhịp tim, lưỡi tím…); ngược lại, tâm khí bất túc, tâm dương bất trấn, huyết hành trở ngại cũng ảnh hưởng đến chức năng tuyên túc của phế mà gây nên chứng tức ngực, ho, khó thở.
Bạn đọc có băn khoăn hay thắc mắc gì thì có thể liên hệ trực tiếp qua Hotline – 0789.502.555 để được hỗ trợ nhé!
Mọi ý kiến đóng góp và thắc mắc xin phép được gửi về:
?Địa chỉ: 166 Nguyễn Xiển – Hạ Đình – Thanh Xuân – Hà Nội
?Hotline: 0789501555 – 0789.502.555 – 0789.503.555