TINH TRÙNG VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY SUY GIẢM TINH TRÙNG

Suy giảm tinh trùng là một trong những tình trạng gây vô sinh ở Nam giới và ngày càng phổ biến ở thời điểm hiện tại. Tình trạng chất lượng tinh trùng suy giảm do nhiều nguyên nhân gây ra, thường liên quan trực tiếp tới chế độ dinh dưỡng, thói quen sinh hoạt của nam giới. 
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây của Phòng khám đông y Tuệ Y Đường. Bài viết được tham vấn bởi Thạc sĩ Bác sĩ Nguyễn Nhật Minh – Giám đốc chuyên môn của phòng khám.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm tinh trùng
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm tinh trùng

Tinh trùng là gì?

Cấu tạo tinh trùng:

Tinh trùng được tạo ra ở tinh hoàn, mỗi tinh trùng mang 23 nhiễm sắc thể, tức là một nửa số nhiễm sắc thể (NST) để tạo thành con người (23 cặp NST) nên nó được gọi là tế bào đơn bội. Bình thường tinh trùng gồm 3 phần: đầu, cổ, đuôi. Nhờ có đuôi hình roi nên tinh trùng có thể di chuyển được 1-3mm/phút

1. Đầu tinh trùng

Chứa nhân ở phần phình. Đoạn 2/3 trước nhân được phủ lên bởi túi cực đầu hình mũ, thành túi cấu tạo bởi hai màng kép gồm hai lá ngoài và trong, lòng túi chứa nhiều enzym có tác dụng tiêu huỷ các chướng ngại vật bao quanh trứng đã chín rụng xuống mở đường cho tinh trùng tiến vào bào tương của trứng để thụ tinh, những enzym này là hyaluronidase, neuramidase và các protease khác.

Ở lá ngoài màng kép định ranh giới túi cực đầu và ở lớp bào tương mỏng chen vào giữa lá ấy với màng tế bào có một loại protein đặc hiệu có tác dụng dính kết đầu tinh trùng vào màng trong suốt của trứng nguyên phát.

Ở lá trong màng kép tạo nên túi cực đầu có một loại protein khác gọi là protein gắn vào trứng thứ phát có tác dụng gắn lá trong màng kép này với màng trong suốt bọc quanh trứng tạo ra sự thụ tinh có tính đặc hiệu cho riêng từng loài động vật. Nghĩa là trứng chín được thụ tinh bởi tinh trùng chỉ được thực hiện ở những động vật cùng loài.

2. Cổ

Theo hướng từ phía đầu xuống đuôi có cấu trúc như sau: Hố lõm gọi là hố cắm (implantation fossa), đáy hố hướng về phía đầu tinh trùng, thành hố do màng nhân gấp lại. Một tấm đáy nằm ở đáy hố, cấu tạo bởi một lớp mỏng chất không hình đậm đặc với dòng điện tử. Tiểu thể trung tâm gần nằm phía dưới tấm đáy. 9 cột chia đoạn xếp thành hình ống. 9 sợi đặc nối tiếp với 9 cột chia đoạn và đi về phía đuôi tinh trùng.
– Những mitochondri thưa thớt xếp song song với dây trục, có chừng 9 mitochodri vây quanh sợi trục.
– Dây trục nằm ở trục dọc và chảy suốt từ cổ đến chỗ tận cùng của đuôi tinh trùng.

3. Đuôi

Chia làm 3 đoạn: đoạn trung gian, đoạn chính, đoạn cuối.

Đoạn trung gian có dây trục nằm giữa, 9 sợi đặc bao mitochondri được tạo nên bởi các mitochondri xếp nối tiếp nhau thành những vòng xoắn theo kiểu trôn ốc, cuốn xung quanh dây trục và một lớp bào tương mỏng bọc ngoài, ngoài là màng tế bào.

Đoạn chính từ trung tâm ra ngoại vi có dây trục, 9 sợi đặc, bao xơ cấu tạo bởi những tổ chức xơ xoắn lại với nhau. Bao xơ có hai chỗ dày lên đối xứng với nhau qua trục dọc tạo thành hai cột dọc. Càng về phía dưới đuôi tinh trùng hình ảnh cấu tạo của cột dọc càng mờ và bao xơ càng mỏng.

Đoạn cuối, trục dọc và bao ngoài là màng tế bào. Toàn bộ quá trình sản sinh tinh trùng từ tế bào mầm (tinh nguyên bào nguyên thuỷ) thành tinh trùng mất khoảng 64 ngày.

Cấu tạo của tinh trùng
Cấu tạo của tinh trùng

Tinh dịch

Tinh dịch gồm 2 thành phần là tinh tương và tinh trùng. Tinh tương bao gồm 60% dịch tiết từ các túi tinh, 30% từ tuyến tiền liệt, 7% từ mào tinh hoàn và 3% từ các tuyến hành niệu đạo. Tinh tương phản ánh hoạt động bài tiết của các tuyến sinh dục. Với một lượng lớn và lại được phóng ra cuối cùng, dịch túi tinh có tác dụng đẩy tinh trùng ra khỏi ống phóng tinh và niệu đạo.

Tinh trùng được sinh ra từ các ống sinh tinh của tinh hoàn. Số lượng và chất lượng tinh trùng phản ánh hoạt động sản xuất tinh trùng của tinh hoàn. Thể tích tinh dịch của 1 lần xuất tinh còn phản ánh tình trạng của các ống dẫn tinh. Thành phần của tinh tương và các tính chất của tinh trùng (sự sống, sự di động và hình thái) có liên quan nhiều đến các chức năng của tinh trùng. Độ pH trung bình của tinh dịch là 7,2-7,5. Với độ pH hơi kiềm này, tinh dịch sẽ trung hòa bớt tính acid của dịch âm đạo, tạo môi trường thích hợp cho tinh trùng hoạt động.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển của tinh trùng và nguyên nhân gây suy giảm tinh trùng

1. Vai trò của các nội tiết tố sinh sản

Một số nội tiết tố sinh sản giữ vai trò quyết định trong việc sản sinh tinh trùng nói chung cũng như trong từng giai đoạn biệt hóa của tinh trùng như đã trình bày ở trên. Những bệnh lý gây rối loạn về nội tiết tố sinh sản dẫn tới một
sự thay đổi rất lớn về số lượng và chất lượng tinh trùng. Thiểu năng tinh trùng do thiểu năng nội tiết tố hướng sinh dục.

2. Suy giảm hormon hướng sinh dục nguyên phát:

Thiếu GnRH của vùng dưới đồi (do bẩm sinh hoặc mắc phải hội chứng Kallman, hội chứng Prader – Willi, hội chứng Laurence – Moon – Bardet – Biedl…), thiếu LH đơn thuần, thiếu FSH đơn thuần có thể dẫn tới lượng tinh trùng trong tinh dịch rất ít hoặc không có tinh trùng. Bài tiết nội tiết quá mức

a. Sản xuất quá nhiều androgen
Do quá sản tuyến thượng thận và thiếu enzym 21 – hydroxylase bẩm sinh. Sự thiếu hụt enzym 21-hydroxylase làm giảm tổng hợp cortisol, làm tuyến yên tăng tiết ACTH để kích thích tuyến thượng thận gây hậu quả tăng androgen. Testosteron trong máu tăng cao gây ức chế sản xuất LH và FSH của tuyến yên, dẫn tới kích thích không đầy đủ tế bào Leydig và Sertoli, tinh hoàn teo bé và giảm sinh tinh. Ngoài ra còn gặp rối loạn này ở những người lạm dụng các steroid tăng đồng hoá, chủ yếu là các vận động viên điền kinh. Tình trạng bệnh lý này thường hồi phục rất lâu sau khi ngừng sử dụng thuốc.

Suy giảm hormon ở nam giới
Suy giảm hormon ở nam giới

Tham khảo bài viết sau: RỐI LOẠN NỘI TIẾT – NIỀM VUI CỦA BỆNH NHÂN SAU ĐIỀU TRỊ BẰNG ĐÔNG Y

b. Nồng độ estradiol quá cao
Estrogen là một steroid có ở đàn ông, tế bào Leydig sản xuất khoảng 20%, tuyến thượng thận tiết khoảng 5%, còn lại do testosteron trong quá trình vận chuyển trong huyết tương có thể chuyển hoá thành estradiol trong các mô nhờ enzym aromatase. Các hormon GnRH, LH và FSH bị ức chế chủ yếu bởi estradiol ngoại vi và tại chỗ, tại vùng dưới đồi và tuyến yên. Khi nồng độ estradiol trong máu tăng quá mức sẽ ức chế sản xuất hormon hướng sinh dục
dẫn đến suy tinh hoàn thứ phát.
Nguyên nhân: có thể do khối u nằm ở phần vỏ tuyến thượng thận, khối u tế bào Sertoli hoặc tế bào Leydig. Trong suy gan cũng có thể làm cho lượng estradiol trong máu ngoại vi tăng cao.

c. Prolactin bài tiết quá mức
Prolactin là một polypeptid, được sản xuất ở các tế bào hướng sữa phần bên của thùy trước tuyến yên. Chất này có khả năng tác động hiệp đồng với LH lên tế bào Leydig, đặc biệt chế tiết ra testosteron. Testosteron cùng estradiol kích thích chế tiết prolactin. Hành vi hoạt động của vỏ não có tác động trực tiếp đến sản xuất ra prolactin và như vậy có thể gây tăng lượng prolactin máu. Tăng prolactin quá mức sẽ gây rối loạn cương dương và ức chế sinh tinh
dẫn đến vô sinh.
Nguyên nhân: Suy thận mạn, xơ gan, u tuyến yên…

d. Cường năng các nội tiết khác
Rối loạn chế tiết hormon tuyến giáp: những bệnh nhân này thường có những di chứng dị tật tinh hoàn và tuyến yên, nồng độ estradiol trong máu cao. Glucocorticoid trong máu cao (trong hội chứng Cushing hoặc do trị liệu nội tiết này) sẽ ức chế bài tiết LH, hậu quả là làm giảm nồng độ androgen trong máu và gây rối loạn chức năng tinh hoàn.

????? Bạn đọc có bất kì thắc mắc về vấn đề da liễu cũng như các bệnh lý khác vui lòng liên hệ hotline: 0789502555 để được tư vấn trực tiếp

3. Bất thường vật chất di truyền

Hội chứng Klinefelter: là bệnh rối loạn số lượng NST (47,XXY), các ống sinh tinh bị xơ hóa, quá trình sinh tinh ngừng hoạt động, đa số không có tinh trùng trong tinh dịch.
Rối loạn XX: là nam nhưng mang NST giới tính XX.
Đột biến gen AZF: việc mất đoạn trong vùng AZF của nhiễm sắc thể Y gây tật không có tinh trùng hoặc ít tinh trùng.
Hội chứng Noonan: còn có tên là hội chứng Turner nam, bệnh nhân có bộ NST 46,XY.
Hội chứng Down: tế bào dòng tinh bất sản hoàn toàn hoặc không trưởng thành.

a. Suy giảm tinh trùng do thương tổn tinh hoàn

Không có tinh hoàn: bệnh thường được gọi là hội chứng “vanishing testis syndrome”, thường có LH và FSH trong máu cao. Tật tinh hoàn không xuống bìu: khiến rối loạn mô học, giảm tế bào mầm dòng tinh.
Giãn tĩnh mạch thừng tinh: là trạng thái thứ phát do tăng áp lực tĩnh mạch thừng tinh với biểu hiện giãn và xoắn thành từng búi của tĩnh mạch tinh hoàn đoạn trong thừng tinh. Bệnh khiến nhiệt độ trong tinh hoàn tăng ảnh hưởng đến sinh tinh và chất lượng tinh dịch.

Hội chứng chỉ có tế bào Sertoli: Tinh hoàn 2 bên teo nhỏ, mật độ mềm,  không có tinh trùng.
Viêm tinh hoàn: 30% số người bị quai bị sau tuổi dậy thì có viêm tinh hoàn 2 bên, teo tinh hoàn kéo dài có thể xuất hiện sau khi bị bệnh vài tháng hoặc vài năm. Viêm tinh hoàn, viêm mào tinh hoàn, viêm đường sinh dục do lao, giang mai, lậu, phong… cũng có thể là tác nhân gây vô sinh. Biểu mô tinh bị thương tổn hay hủy hoại hoàn toàn do tác động trực tiếp của nhiễm trùng, phản ứng viêm, tăng nhiệt độ hay do phản ứng miễn dịch sau khi hàng rào máu – tinh hoàn bị phá hủy.

b. Suy giảm tinh trùng do rối loạn xuất tinh

Xuất tinh ngược dòng: Bệnh nhân biểu hiện không có tinh dịch xuất ra khi giao hợp hoặc số lượng tinh ít do tinh dịch được phóng ra khỏi túi tinh nhưng lại vào bàng quang chứ không ra niệu đạo.
Xuất tinh chậm: Bệnh nhân không xuất tinh được khi giao hợp, sau giao hợp tinh dịch mới chảy ra ngoài từ từ.
Không xuất tinh: hưng phấn khi giao hợp của bệnh nhân không tăng dần, không thấy khoái cảm cực độ và không xuất tinh.

Suy giảm tinh trùng do rối loạn xuất tinh
Suy giảm tinh trùng do rối loạn xuất tinh

c. Chế độ ăn uống

Chế độ ăn thiếu một số chất như vitamin A gây thoái hóa tinh trùng; vitamin E, vitamin C chống stress về oxy hóa tinh trùng, khi thiếu sẽ gây tổn thương tinh trùng; một số acid béo, acid amin và kẽm có thể ảnh hưởng trực tiếp lên tinh hoàn và gây giảm sinh tinh. Thiếu vitamin B có thể ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh do ảnh hưởng trực tiếp lên tuyến yên và gián tiếp lên tinh hoàn.

Gần đây nhiều quan điểm cho rằng các thức ăn hiện đại thường chứa nhiều các gốc hóa học có tính estrogen yếu, nếu tích tụ lâu ngày, có thể ức chế sinh tinh. Đây có thể là một nguyên nhân chính của hiện tượng giảm số lượng và chất lượng tinh trùng của nam giới đang được báo động.

d. Nhiệt độ

Tinh trùng chỉ được tạo thành và phát triển ở môi trường có nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ của cơ thể từ 1-2 độC. Một số bệnh như: tinh hoàn trong ổ bụng, tinh hoàn ẩn, tinh hoàn không xuống bìu, giãn tĩnh mạch tinh, nước màng tinh
hoàn… làm tăng nhiệt độ vùng tinh hoàn ngang với nhiệt độ cơ thể sẽ làm quá trình sinh tinh trùng bị ngưng lại.

Số lượng, độ di động, hình thái tinh trùng có thể thay đổi sau sốt cao, các thay đổi này xuất hiện sau ốm vài tháng và phục hồi cũng cần thời gian tương tự. Ngoài ra, nhiệt độ cao còn gây tổn thương ADN của tinh trùng.
Trong một nghiên cứu tại bệnh viện Từ Dũ, thực hiện trên 400 cặp vợ chồng đến khám vô sinh, thấy chất lượng tinh trùng giảm ở nhóm bệnh nhân làm việc trong môi trường nóng: như đầu bếp, thợ hàn, thợ luyện kim.

e. Miễn dịch

Khi có sự xâm hại hàng rào máu – tinh hoàn sau khi chấn thương tinh hoàn, viêm ống sinh tinh hoặc tắc ống dẫn tinh, các hành vi giao hợp bất thường… là điều kiện thuận lợi để tinh trùng và các sản phẩm thoái hóa của nó xuất hiện trong máu sẽ phát động hệ thống miễn dịch sinh kháng thể chống tinh trùng làm bất động tinh trùng hoặc kết dính tinh trùng.

Nếu người vợ có kháng thể chống tinh trùng, khi giao hợp tinh trùng sẽ bị kết dính nằm trong âm đạo mà không xuyên qua chất nhày cổ tử cung để vào trong buồng tư cung, tiếp cận với trứng để thụ thai. Tỷ lệ vô sinh do kháng thể chống tinh trùng trong huyết thanh từ 2-6%. Nếu kháng thể chống tinh trùng trong huyết tương có hiệu giá trên 1/32 thì không tác động đến sinh sản. Kháng thể chống tinh trùng chỉ tác động đến sinh sản khi có hiệu giá 1/64, nếu ở hiệu giá 1/1264 thì hoàn toàn vô sinh.

>> Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH Á SỪNG

f. Môi trường sống và làm việc

Nhiễm độc một số kim loại nặng như chì, thủy ngân có thể gây giảm sinh tinh và gây vô sinh. Nghiện rượu làm xơ hóa tinh hoàn và tăng estradiol nên ức chế sinh tinh. Hút thuốc lá làm giảm số lượng tinh trùng và làm dị dạng so với người không hút.

Nghiện cần sa nặng, nghiện heroin sẽ làm giảm nồng độ testosteron trong máu, giảm mật độ tinh trùng trong tinh dịch, vú to do endorphin có tác dụng ức chế đối với gonadotropin.Trên thực nghiệm cho chuột uống cocain kéo dài sẽ gây dị dạng tinh trùng. Ngoài ra một số chất khác cũng tác động đến quá trình sinh tinh.

Quá trình sinh tinh rất nhạy cảm với nhiều loại hóa chất có nguồn gốc công nghiệp và nông nghiệp: thuốc trừ sâu diệt cỏ (DBCP, chlordecone, ethylene dibromide) có ảnh hưởng lên quá trình sinh tinh làm giảm số lượng và chất lượng tinh trùng, có thể tác động trực tiếp lên quá trình sinh tinh tại tinh hoàn hoặc lên các tuyến phụ thuộc do chúng có tác dụng tương tự các nội tiết tố. Dioxin ảnh hưởng đến quá trình sinh sản và biến dạng tinh trùng.
Tiếng ồn cường độ cao có ảnh hưởng xấu đến chất lượng tinh trùng.

g. Tia X, các tia phóng xạ và hóa chất

Đa số các tế bào dòng tinh bị các hoá chất chống ung thư ức chế ở pha tổng hợp tế bào và phân bào. Tinh nguyên bào trong giai đoạn phân chia rất nhạy cảm với phóng xạ, trong khi tinh nguyên bào gốc, tinh tử và tinh trùng ít bị tác động hơn. Nếu xạ trị liều 18 rad/kg, sinh tinh phục hồi sau 12 tháng; liều 50 rad/kg hoặc lớn hơn sẽ gây hậu quả không tinh trùng trong tinh dịch, sau khi dừng thuốc một năm quá trình sinh tinh vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, phải mất vài năm số lượng tinh trùng mới đạt mức tối đa. Ngoài ra, mặc dù quá trình sinh tinh có thể hồi phục, nhưng phóng xạ có thể gây đột biến NST và gây nên những bất thường cho thế hệ sau. Do vậy, những bệnh nhân xạ trị, người ta có thể trữ lạnh tinh trùng trước khi xạ trị để duy trì khả năng sinh sản của bệnh nhân.

h. Sự cấp máu cho tinh hoàn

Quá trình sinh sản và biệt hóa của tế bào dòng tinh đòi hỏi tinh hoàn phải được cung cấp máu đầy đủ. Khi động mạch tinh bị tổn thương hoặc xoắn, các ống sinh tinh sẽ hoại tử và teo đi.

k. Suy giảm tinh trùng do mắc bệnh toàn thân

Những bệnh urê máu cao sẽ làm giảm ham muốn tình dục, gây rối loạn cương dương, chứng to vú, thương tổn quá trình sinh tinh. Bệnh xơ gan gây rối loạn nội tiết, bất lực, chứng to vú ở đàn ông và xơ teo tinh hoàn. Ở bệnh nhân có bệnh lý ác tính, sinh tinh thường giảm mạnh hoặc ngưng hoàn toàn, chủ yếu do tác động của các phương pháp điều trị như xạ trị, hóa chất.

l. Các thuốc điều trị các bệnh lý nội khoa gây suy giảm tinh trùng
Theo WHO (2000), một số thuốc được ghi nhận có thể ảnh hưởng đến sinh tinh như: Nội tiết: Corticoid hoặc androgen gây ức chế tuyến yên, có thể ức chế sinh tinh và teo tinh hoàn. Cimetidine: Ức chế cạnh tranh với androgen, ức chế sinh tinh. Sulphasalazine: Tác động trực tiếp lên quá trình sinh tinh.

Spironolacton: Ức chế tác động của androgen. Nitrofurantoin: Ức chế trực tiếp lên quá trình sinh tinh. Niridazone: Ức chế trực tiếp lên quá trình sinh tinh. Colchichine: Ức chế trực tiếp lên quá trình sinh tinh. Kháng sinh có thể tác động lên các ty thể của đa bào (người) vì mang ribosom 70S. Sự tác động này có thể ảnh hưởng đến sự hoạt động của tế bào và đặc biệt đối với tinh trùng sẽ ảnh hưởng tới cả khả năng di động của chúng

Nitropurantoin: Giảm số lượng tinh trùng, sinh tinh dừng lại ở tinh bào 1 Erythromycin: Tác động đến chuyển động của tinh trùng. Gentamycin: Ngừng phân chia giảm nhiễm ở tinh bào cấp 1. Neomycin: Làm giảm số lượng và khả năng chuyển động của tinh trùng. Chlortetracyclin Ảnh hưởng tới chuyển động. Sulphasalazin: Làm giảm số lượng và khả năng chuyển động gây dị dạng tinh trùng. Co-trimoxazol: Làm giảm số lượng và khả năng chuyển động gây dị dạng tinh trùng

Spiramycin: Làm dừng sinh tinh. Lincomycin: Làm giảm khả năng chuyển động của tinh trùng. Tylosin: Làm giảm khả năng chuyển động của tinh trùng. Penicillin G: Làm dừng sinh tinh. Cephalotin: Làm dừng sinh tinh. Ampicilin: Làm dừng sinh tinh. Dicloxacillin: Làm giảm khả năng chuyển động của tinh trùng. Quinolon: Làm giảm khả năng chuyển động của tinh trùng

Đón đọc: ĐAU BỤNG KINH – XOA DỊU CƠN ĐAU

i. Độ pH của tinh dịch
Tinh trùng thích hợp và hoạt động mạnh ở môi trường trung tính hoặc hơi kiềm. Trong môi trường acid nhẹ, hoạt động của tinh trùng sẽ giảm đi. Trong môi trường acid mạnh, tinh trùng sẽ bị tiêu diệt. Chính vì vậy, trước đây một số thuốc tránh thai đặt vào âm đạo người phụ nữ trước khi giao hợp dựa trên nguyên tắc tạo ra trong âm đạo một môi trường acid mạnh.

m. Stress về oxi hóa

Các chất dẫn xuất có hoạt tính oxi là các sản phẩm chuyển hóa sinh lý của các tế bào. Các chất này có thể trở nên độc hại đối với nhiều tế bào, trong đó có các tinh trùng, khi hàm lượng của chúng tăng lên trong môi trường các tế bào hoặc có sai sót trong quá trình thoái biến và đào thải chúng ra khỏi cơ thể. “Stress oxi hóa” được đặc trưng bằng sự mất cân bằng giữa việc sản xuất các chất dẫn xuất có hoạt tính oxi và khả năng chống lại phản ứng oxi
hóa của cơ thể.
Stress về oxy hóa đã được thừa nhận rộng rãi là nguyên nhân của sự khiếm khuyết về chức năng tinh trùng, ảnh hưởng đến cả khả năng sinh sản lẫn sự toàn vẹn của DNA trong nhân tinh trùng.

n. Một số yếu tố khác

SGTT do rối loạn trương lực cơ
SGTT do các bất thường androgen
Tắc ống dẫn tinh bẩm sinh hoặc mắc phải, rối loạn chức năng các tuyến phụ trợ sẽ ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành của tinh trùng.

Tin liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *