KHÍ VÀ HUYẾT-BÀN LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

“Khí và huyết” là hai yếu tố cơ bản và quan trọng nhất, tạo nên nền tảng cho sự sống và sức khỏe của con người. Chúng không chỉ là những khái niệm vật lý mà còn mang ý nghĩa sinh lý và năng lượng sâu sắc, phản ánh sự vận hành và cân bằng của cơ thể. Theo quan niệm cổ truyền: “Khí là thống soái của huyết”, “Khí đi, huyết theo”- tức khí thúc đẩy dòng chảy của huyết; nếu khí suy thì huyết cũng lưu thông kém. Khi khí và huyết cân bằng, cơ thể khỏe mạnh; ngược lại, nếu khí hư hay huyết hư, hay khí huyết không thông thì dễ phát sinh bệnh tật, đặc biệt là rối loạn kinh mạch,tâm lý, hệ thần kinh và tiêu hóa.

Để hiểu rõ hơn về “khí và huyết” trong y học cổ truyền, mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây. Bài viết được tham vấn bởi Bác sĩ CKII Trần Thị Thu Huyền – trưởng khoa khám bệnh của phòng khám Tuệ Y Đường.

KHÍ VÀ HUYẾT - bàn luận về mối quan hệ trong y học cổ truyền
KHÍ VÀ HUYẾT – bàn luận về mối quan hệ trong y học cổ truyền

Định nghĩa “Khí và huyết” là gì?

1. Khí là gì?

Khí là sản phẩm vô hình của: tinh hoa vô hình của đồ ăn thức uống(cốc khí) kết hợp với dương khí có sẵn trong cơ thể + dưỡng khí của phế. Khí vận hành giúp lưu thông huyết dịch, giữ gìn cơ thể không bị rò rỉ( ví dụ khí nhiếp huyết), và nuôi dưỡng các tạng phủ.

>>>>> CÙNG TÌM HIỂU THÊM VỀ TINH KHÍ TRONG ĐÔNG Y

2. Huyết là gì?

Huyết là sản phẩm hữu hình của: tinh hoa hữu hình đồ ăn thức uống + âm khí có sẵn trong cơ thể. Huyết nuôi dưỡng da, gân, cơ, xương, thịt và cân bằng nội tiết( ví dụ kinh nguyệt ở nữ giới) nhờ việc được. Can tàng huyết điều tiết phân phối theo nhu cầu của cơ thể.

Khí và huyết theo Y Học Cổ Truyền
Khí và huyết theo Y Học Cổ Truyền

>>>>> CÙNG TÌM HIỂU THÊM VỀ HUYẾT DỊCH TRONG ĐÔNG Y

MỐI QUAN HỆ GIỮA KHÍ VÀ HUYẾT

1. Khí làm hướng đạo cho huyết, huyết làm chỗ dựa cho khí.

Khí thuộc dương chủ về động mà lưu hành, huyết thuộc âm chủ về tĩnh mà phụ thuộc tác dụng của khí vô hình mà lưu thông, thể chất của huyết hữu hình là nương tựa và giữ gìn, cho nên khí hành thì huyết theo, âm là cơ sở của dương. Đây là mối liên quan đầu tiên của khí và huyết.

2. Huyết là ngọn của khí, khí là gốc của huyết.

Khí là dương, dương chủ ngoài biểu, hộ vệ cho xương cốt, huyết là âm, âm chủ trong lý, vinh dưỡng cho da thịt, cho nên giúp đỡ cho âm mà huyết là ngọn của khí, âm giữ gìn dương mà khí là gốc của huyết. Nhờ có mối tương quan của khí và huyết này mà cơ thể khỏe mạnh. 

3. Khí không có huyết, thì khí tán mà không có sự thống quản, huyết không có khí thì huyết ngưng mà chẳng lưu thông.

Khí là dương huyết là âm, dương chủ động âm chủ tĩnh, âm dương nương tựa lẫn nhau, khí huyết âm gìn giữ cho dương, dương giúp đỡ cho âm, vệ khí vận hành ở ngoài mạch, vinh huyết vận hành ở trong mạch cho nên trong khí không có huyết thì khí không có sự thống quản, huyết không có khí thì huyết chẳng lưu hành. Chính vì điều này mà khí và huyết luôn phải song hành cùng nhau.

4. Tỳ vị là cha của khí và huyết, tâm thận là mẹ của khí và huyết, can phế là nơi cư trú của khí và huyết.

Vị chủ nạp, tỳ chủ vận hoá chuyển đạt tinh hoa của thủy cốc, làm nguồn sinh hóa cho khí huyết, cũng như cha đẻ vậy. Chân âm trong trái tim, chân dương trong quả thận, là căn bản của khí huyết, cũng như mẹ đẻ vậy. Can tàng huyết, phế chủ khí, chủ và tàng cũng có nghĩa là lưu trú. Như vậy, khí và huyết có cùng nguồn gốc với nhau, nương tựa vào nhau để cùng sinh trưởng và phát triển.

5. Khí và huyết của con người cũng như nguồn suối, nhiều thì chảy khắp, ít thì ứ trệ, cho nên khí thịnh thì không ứ trệ.

Sông ngòi của trời đất, cũng như mạch lạc của con người, nguồi suối đầy thì lưu thông, khí huyết đầy thì truyền đi khắp, làm gì có ứ trệ. Khí và huyết luôn đi cùng nhau không tách rời.

Khí và huyết của con người cũng như nguồn suối, nhiều thì chảy khắp, ít thì ứ trệ, cho nên khí thịnh thì không ứ trệ
Khí và huyết của con người cũng như nguồn suối, nhiều thì chảy khắp, ít thì ứ trệ, cho nên khí thịnh thì không ứ trệ

6. Vinh huyết hư thì tê dại, vệ khí hư thì không cử động.

Vinh là huyết, huyết hư thì không có khả năng tưới nhuận bắp thịt, cho nên không biết đau ngứa mà tê dại, vệ là khí, khí hư thì không có khả năng vận dụng đường gân, cho nên nói không cử động được. Khí và huyết ảnh hưởng tới bắp thịt, gân cơ.

7. Khí hư thì tê dại, huyết hư thì cứng đờ (ngoài da không biết đau là tê dại, trong gân không mềm dẻo là cứng đờ)

Khí là vệ, vệ vận hành ở ngoài mạch, khí hư không vận hành được mà tê, như người ngồi co khí bị trệ thì tê, đến khi cử động khí hành, thư thái mới khỏi, huyết là vinh, vinh vận hành ở trong mạch, huyết bị hư không tưới mát được bắp thịt, đường gân cứng đờ như gỗ. Khí và huyết cùng hư sẽ cùng biểu hiện ra ngoài cơ thể.

8. Huyết là tinh của thuỷ cốc, lớp lớp hoá sinh ra, song thực là nó sinh hoá ở Tỳ, thống quản ở Tâm, tàng trữ ở Can, phân phối ở Phế, gạn lọc tiết ra ở Thận, như vậy mới có khả năng tưới tắm cho toàn thân.

Thức ăn vào dạ dày, tinh khí đưa vào tỳ, đó là tinh của thuỷ cốc, hoá sinh ra huyết. Trong tâm có nước dịch đỏ là chân âm, tâm thuộc hành hoả, huyết bị hoả hoá nên sắc đỏ, cho nên tâm thống quản huyết: Thức uống vào dạ dày, tinh trấp phân tán vào can, huyết cũng là chất nước, nước tưới sống được cây cỏ. Can chủ về cân, huyết nuôi gân mà chứa đựng ở can.

Khí là tướng soái của huyết, khí đi thì huyết theo. Phế chủ về khí, chủ việc điều tiết huyết tuần hoàn, mà phân phối ở phế, nhưng đi khắp được kinh lạc, là hoàn toàn nhờ một điểm chân dương của tiên thiên(ở thận), chính là ông tổ của khí, cho nên gạn lọc ở thận. Thận hư thuỷ kém thì không sinh được huyết mà tràn ra thành đờm, lại như chứng huyết khô kinh nguyệt bế, thì bổ thuỷ mà huyết tự sinh ra, vậy thì rõ là huyết gốc ở thận.

9. Huyết suy thì hình thể liệt yếu, huyết bại thì hình thể huỷ hoại, cho nên khi xương cốt có chỗ nào bị hư yếu thì thấy ngay bại liệt một bên.

Bắp thịt được đầy đặn, xương cốt được tươi tốt là nhờ công dụng của huyết; cho nên nói: Thịt nhờ huyết mà thành, lại nói: Huyết là cơ sở của hình thể, huyết theo khí chạy khắp các mạch tưới bón kinh lạc, nếu có chỗ nào không đầy đủ, thì co quắp mà run giật, sinh ra chứng tê liệt không cử động được. Nội kinh nói: “mắt nhờ huyết mà thấy được, tay nhờ huyết mà cầm được, chân nhờ huyết mà đi được,…” chính là như vậy.

10. Đại trường có huyết thì nhuận, mất huyết thì táo.

Huyết là thuỷ, thuỷ chế được hoả mà nhuận táo, huyết là âm, âm hư thì hoả bốc, càng nóng thì âm càng bị thương tổn huyết làm huyết khô mà càng táo. Huống chi kinh đại trường nhiều huyết, huyết bị tổn thương thì đường truyền xuống không nhuần ướt, đó chỉ nên bổ bằng thuốc âm nhu thuần tĩnh, mà rất kiêng kỵ thuốc thông lợi nhanh chóng như Mang tiêu, Đại hoàng để công trục.

11. Trong huyết không có khí, thì bệnh thấy buông xuôi rã rời, trong khí không có huyết thì bệnh thấy co quắp run giật.

Huyết chủ việc nhu nhuận, khí chủ việc làm cho ấm, huyết là vinh để dinh dưỡng các kinh mạch, khí là vệ để bảo vệ xương cốt, cho nên trong huyết mà không có khí, thì vệ khí không thể gìn giữ được mà sinh buông xuôi rã rời, trong khí mà không có huyết thì dinh khí không tưới bón mà sinh ra co quắp. Sách chép: Gân rã rời thì trách bởi không có khí, gân co cắp thì trách bởi không có huyết là như thế. Khí và huyết phải cùng song hành thì như vậy cơ thể mới hoạt động bình thường.

Huyết trong cơ thể
Huyết trong cơ thể

12. Phế đưa khí ra, Thận thu khí vào, cho nên Phế là chủ của khí, Thận là gốc của khí.

Phế ở trên chủ về dương, thận ở dưới chủ vê âm; dương chủ đưa ra mà thở ra, âm chủ thu lại mà hít vào, phế là nguồn của mọi khí, cho nên chủ về khí, thiếu hỏa ở trong thận sinh ra khí, cho nên thận là gốc của khí. Sách nói: Phế là cửa ngõ của thanh âm, thận là gốc rễ của thanh âm, thanh âm tức là khí, cùng chung một loài.

13.Khí bị hư thì đau, hình bị hư thì sưng.

Khí thuộc hoả, khí uất thì hoả nóng đốt mà đau, hình thuộc huyết, huyết tắc thì thịt nổi u lên mà sưng. Sách nói “Đau thì tổn thương khí, sưng thì tổn thương huyết”.

14.Khi nằm thì huyết trở về Can.

Nội kinh nói: Dương ra ngoài âm thì thức, dương vào trong âm thì ngủ, lại nói: ban đêm thì vệ khí đi trong phần vinh, dương tàng trong âm, thì huyết về Can. Đêm không ngủ được là âm không giữ được dương, huyết không trở về gan, phần âm của can bị hư thì khí của can thái quá, chỉ chuyên làm việc sơ tiết, nên thấy có chứng tiểu tiện luôn, đó là triệu chứng rõ rệt.

15. Khí nhiều thì huyết dễ đưa lên, huyết ít thì hoả dễ bốc cháy.

Khí thuộc hoả, tính hoả hay bốc lên, khí đi thì huyết theo, cho nên khí nhiều thì huyết dễ đưa lên, huyết thuộc âm, âm hư thì dương lấn, dương chủ hoả, cho nên huyết ít thì hoả dễ bốc. Khí và huyết thừa hay thiếu một chút cũng tác động đến cơ thể chúng ta.

16. Huyết thực khí hư, thì thể vóc dễ béo, khí thực huyết hư thì thể vóc dễ gầy.

Khí thuộc dương chủ xương tuỷ, huyết thuộc dương chủ bắp thịt, huyết hơn khí thì béo mập, dương hơn âm thì gầy guộc, cho nên người béo khí hư mình mát, người gầy huyết hư mình nóng: “Dương sinh âm sát”. Khí và huyết dù thừa hay thiếu một chút cũng dần dần sẽ biểu hiện nên bệnh.

17. Khí hư không liễm nạp được nguyên dương ở trung cung, huyết hư không tiếp nhận được thận hoả(long hoả) ở hạ tiêu 🡪 đều sinh chứng hư nhiệt.

Sự tàng nạp hoả không ra ngoài thuỷ và thổ, khí tức là vị khí, nguyên dương ở trung tiêu, tức là lửa ở trong lò, huyết thuộc về chất thuỷ, long hoả ở hạ tiêu, tức là hoả ở trong thuỷ, nếu khí hư không liễm nạp được hoả, là thổ hư không có khả năng để tàng dương, huyết hư không tiếp nạp được hoả, là thuỷ thiếu không có khả năng chế hoả, đều là chứng giả nhiệt. Khí và huyết hư suy có thể đều biểu hiện ra chứng hư nhiệt.

18. Bị mất huyết thì không có mồ hôi, bị mất mồ hôi thì không có huyết.

Mồ hôi là chất dịch của tâm, tên riêng của huyết, như vậy mồ hôi tức là huyết, huyết tức là mồ hôi, cùng một vật mà khác loài, cho nên chứng âm hư cảm mạo, thì phát hãn không ra được mồ hôi là vì huyết đã bị mất từ trước. Sau khi ra mồ hôi nhiều, huyết hư mà tâm động, kinh sợ đánh trống ngực, cùng chứng sau khi đẻ, ung nhọt, xuất huyết mà sinh ra co cứng, ấy là do huyết kiệt.

19. Khí và huyết không điều hoà thì ngưng kết lại mà làm thành ung nhọt.

Khí huyết cũng như nguồn suối, đầy đủ thì chảy lưu thông, ít thì ủng trệ, nghĩa là vinh huyết vệ khí cùng chân thuỷ chân hoả, đi ngầm chạy khắp các nơi ngày đêm chẳng nghỉ, thì mọi đường kinh điều hoà khoan khoái, làm gì có bệnh. Nếu có ủng trệ chỗ nào thì sinh ra ung nhọt và sưng thũng. Nội kinh nói “ Khí bị hư thì đau, huyết bị hư thì sưng”. Khí và huyết luôn cùng nhau điều hòa cơ thể để tránh sự ngưng kết mà làm thành mụn nhọt.

Khí và huyết trong cơ thể
Khí và huyết trong cơ thể

20. Huyết thoát thì sắc mặt trắng bợt mà không nhuần nhã.

Khí chủ hình, huyết chủ sắc, cho nên nói huyết làm tươi sáng sắc mặt, huyết thoát thì sắc trắng như xương khô, không có hồng nhuận. Nhưng khí bị hư mặt cũng hiện ra sắc trắng. Phân biệt nó: Khí là vô hình là chất thanh, huyết là hữu hình là chất trọc sắc trắng thuộc khí hư là trắng bệch, trong màu trắng có vẻ trong, nổi gân trơ xương, trông thấy đã biết là hàn lạnh, sắc trắng về huyết là trắng khô, trong màu trắng có vẻ đục, như màu thiếc, mầu gio, trông thấy có vẻ tưởng tượng như nhợt nhạt.

21. Khí không có thuỷ thì không hoá được, tinh không có khí thì không vận hành được.

Tạng phế thuộc khí chủ về điều tiết, khơi thông đường thuỷ, nếu đường thuỷ không thông thì khí của phế nghịch lên. Nội kinh nói “chứng nôn khan cốt làm cho lợi tiểu tiện”: để cho phế khí giáng xuống thì sẽ dừng nôn khan, ấy là khí không có thuỷ thì khí không hoá được.

So sánh với huyết, tinh là dương, huyết là âm, đem so sánh với thần khí thì tinh huyết là âm thần khí là dương, nếu tinh không có khí thì trong âm không có dương lấy gì ra mà vận hành được.

22. Khí đi thì huyết cũng đi theo, dương bị hư thì âm cũng tan rã.

Khí là thống soái của huyết, khí cũng như tướng, huyết cũng như binh, tướng đi đâu thì binh đi đó, khí đi đâu thì huyết đi theo đó, dương bảo vệ cho âm, dương ở ngoài, âm ở trong, ngoài chẳng bảo vệ thì trong cũng phải chạy, đó là then chốt của âm dương, nên cùng giữ gìn mà không nên cách ly nhau, cho nên dương vong thì âm cũng thoát, âm vong thì dương cũng bại. Biểu hiện rõ của việc khí và huyết luôn đi cùng nhau, khí và huyết luôn song hành không tách rời.

23. Nôn mửa thì hại khí, khí hư thì hồi hộp đánh trống ngực, tiết tả thì hao huyết, huyết hư thì kinh sợ.

Thình lình gặp cái gì mà đánh trống ngực là chứng “quý”, vô cớ mà đánh trống ngực là chứng “kinh”. Chứng mửa xuất phát từ thượng tiêu, thuộc dương phận, mửa do khí nghịch lên mà hại khí, phế chủ khí, khí hư thì phế không tàng được phách, mà sinh ra đánh trống ngực, tiết tả thì ở hạ tiêu thuộc phần âm, tiết tả thì kiệt tân dịch mà mất máu tâm chủ huyết, huyết hư thì tâm không tàng được thần mà sinh ra kinh sợ. Biểu hiện của các chứng trong cơ thể có thể là biểu hiện hư suy của khí và huyết và nó dẫn theo một loạt các triệu chứng hư suy khác của khí và huyết.

24. Huyết chứng đều không uống nước, khí chứng thì uống nước(cũng có huyết chứng thì uống nước)

Hạ tiêu thuộc âm phận, thuộc huyết, thượng tiêu thuộc dương phận thuộc khí, tất cả các bệnh ở thượng bộ thì khát hạ bộ thì không, đó là nói bệnh ở trên hay ở dưới. Còn huyết bệnh do âm hư thì chắc chắn khát, vì huyết tức là tân dịch hoá sinh ra “bệnh khát thường phát sinh ở huyết chứng”. Khí và huyết không cân bằng thì cũng dễ gây ra nhiều chứng thực, chứng hư trong cơ thể.

25.Trung khí không đầy đủ thì nước giải biến màu.

Nước giải biến màu là biến màu vàng, tất cả trung khí đã hư thì khí mất công năng điều tiết, đường thuỷ không điều hoà mà nước giải biến màu vàng, người không hiểu thì nói chung chung là nước giải màu vàng là có nhiệt ở trong mà dùng thuốc thanh nhiệt, làm cho hoả suy và khí càng hư, thậm chí sinh ra chứng bí đái mà còn chưa tỉnh ngộ, trong bài Ngũ Linh người ta dùng nhục quế bổ hoả để thông phế khí.

26. Khí thượng bộ không đầy đủ, thì óc do đó mà không đầy, đầu do đó mà ngả nghiêng, mắt do đó mà lác lệch.

Khí thuộc dương, đầu là chỗ mọi kinh mạch dương hội họp, mắt là tinh hoa của tạng phủ, khí không đủ thì dương không có chủ mà ngả nghiêng, óc không đầy đủ thì chân tinh không đủ mà mắt lác lệch, tất cả trẻ em bị nghẹo cổ là do dương hư.

27. Dương khí hoà thì thông lợi, chứa đầy ở tâm, ra mũi cho nên hắt hơi.

Dương là sinh khí, âm là sát khí, phế chủ về khí, khai khiếu, ở mũi, hắt hơi là dương khí lưu lợi, cho nên chứng trúng phong hễ hắt hơi thì chữa được.

28. Khí và huyết hư, biểu hiện ra các chứng tuy nhiều, nhưng tóm lại không ra ngoài phạm vi âm dương, khí huyết và hư thực.

Tất cả khí và huyết đã hư mà sinh ra đủ các hư chứng không thể tả hết, người kém thì làm sao tránh khỏi cái tệ đau đau chữa đó. Sách nội kinh chép: “biết được cái cốt yếu thì một lời là đủ, không biết được cái cốt yếu thì lan man vô cùng” ; “ chữa một bệnh thì mọi bệnh tiêu trừ, điểm cốt yếu là ở trong âm dương khí huyết chỉ có một mà thôi”. Biểu hiện tuy nhiều nhưng khí và huyết cũng không ra ngoài phạm vi của âm dương, khí huyết và hư thực.

Bạn đọc có băn khoăn hay thắc mắc gì thì có thể liên hệ trực tiếp qua Hotline – 0789.502.555 để được hỗ trợ nhé!

Mọi ý kiến đóng góp và thắc mắc xin phép được gửi về:

Facebook: Tuệ Y Đường

?Ths.Bs Trần Thị Thu Huyền

?‍ Bác sĩ Đoàn Dung

?Địa chỉ:166 Nguyễn Xiển – Hạ Đình – Thanh Xuân – Hà Nội

?Hotline: 0789.501.555 – 0789.502.555 – 0789.503.555

Tin liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *