Thất ngôn là một trong những triệu chứng của nhồi máu não (NMN). Tình trạng này ảnh hưởng đến người bệnh cả về sinh hoạt và tính tình.
Theo YHCT, nhồi máu não thuộc phạm vi chứng “Trúng phong” được mô tả là BN đột nhiên chóng mặt, ngã, một nửa người không cử động được, miệng méo, nói ngọng, nếu nặng thì bất tỉnh hôn mê. Trong đó Rối loạn ngôn ngữ (RLNN) hay còn gọi là thất ngôn trên bệnh nhân NMN sau giai đoạn cấp được mô tả với bệnh danh là “thất ngôn” thuộc chứng “Bán thân bất toại” của YHCT.
Để hiểu rõ hơn về chứng thất ngôn trong nhồi máu não, mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây. Bài viết được tham vấn bởi bác sĩ CKII Trần Thị Thu Huyền – trưởng khoa khám bệnh của phòng khám đông y Tuệ Y Đường.

Rối loạn ngôn ngữ theo Y học cổ truyền
Sau giai đoạn cấp của trúng phong, BN thường có triệu chứng yếu, liệt nửa người nên thuộc phạm vi chứng Bán thân bất toại.
Ngoài ra BN còn có các rối loạn về ngôn ngữ biểu hiện có thể là không nói được và/hoặc không hiểu được, có thể nói khó, nói ngọng, không hiểu được lời nói hoặc không viết được thuộc phạm vi chứng: Thất ngôn, bất ngữ, thiệt ám (lưỡi tối), thiệt cương…
Bệnh nguyên là do phong đàm trở ngại kinh lạc, kinh lạc bất thông, khí huyết trở trệ, kinh mạch không nuôi dưỡng mà dẫn tới không nói được.
Theo YHCT, thất ngôn hậu trúng phong được phân thành 3 thể lâm sàng:
Thể can thận âm hư:
Thường gặp ở người có thể trạng gầy, người cao tuổi, tăng huyết áp và có xơ vữa mạch với các triệu chứng: Nói ngọng, miệng méo, bán thân bất toại, chân tay cứng đờ, co quắp, đau đầu, hoa mắt chóng mặt, ù tai, chất lưỡi đỏ, không rêu hoặc rêu vàng khô. Mạch trầm huyền sác. Pháp điều trị: Tư âm tiềm dương, trấn hỏa tức phong.
Mời các bạn cùng tham khảo: >>> BÁCH HỢP – DƯỠNG PHẾ ÂM
Thể phong đàm:
Thường gặp ở những người tăng huyết áp, béo phì, cholesterol máu cao với các triệu chứng: Nói ngọng, bán thân bất toại, chân tay tê dại, nặng nề, khó cử động, miệng méo, nặng đầu, hoa mắt chóng mặt, lưỡi bệu, dính nhớt, rêu trắng dày. Mạch huyền hoạt. Pháp điều trị: Kiện tỳ, trừ đàm thông lạc.

Thể khí hư huyết ứ:
Thường gặp ở người bệnh có bệnh lý tim mạch, xơ vữa động mạch với các triệu chứng: Nói ngọng, nói khó, bán thân bất toại, chân tay mình mẩy mềm vô lực, tê bì, miệng méo, sắc mặt không tươi nhuận, lưỡi tím có điểm ứ huyết. Mạch tế sáp hoặc hư nhược. Pháp điều trị: Ích khí hoạt huyết thông lạc.
Điều trị rối loạn ngôn ngữ bằng điện châm
Điện châm là phương pháp chữa bệnh phối hợp tác dụng chữa bệnh của châm cứu với tác dụng của các dòng điện thông qua một máy điện châm.
Đây là loại máy phát ra dòng điện một chiều, dòng điện xoay chiều tạo ra các xung đều hay không đều, có nhiều đầu kích thích tính năng ổn định an toàn, điều chỉnh thao tác dễ dàng và đơn giản được sử dụng rộng rãi.
Kích thích của dòng điện một chiều hoặc dòng điện xung có tác dụng làm dịu đau, ức chế cơn đau điển hình, kích thích hoạt động các cơ, các tổ chức và tăng cường dinh dưỡng các tổ chức, giảm viêm, giảm xung huyết và phù nề tại chỗ.

Cơ chế tác dụng của châm cứu:
- Phản ứng tại chỗ: Châm cứu là kích thích tạo ra một cung phản xạ mới có tác dụng ức chế và phá vỡ cung phản xạ bệnh lý. Những phản xạ đột trục của hệ thần kinh thực vật làm ảnh hưởng tới sự vận mạch, thay đổi nhiệt độ, sự tập trung bạch cầu… làm thay đổi tính chất của tổn thương, giảm xung huyết, giảm đau…
- Phản ứng tiết đoạn: Khi nội tạng tổn thương thì có những thay đổi cảm giác vùng da ở cùng một tiết đoạn với nó, ngược lại những kích thích từ vùng da của một tiết đoạn nào đó sẽ ảnh hưởng đến nội tạng cùng trên tiết đoạn đó.
- Phản ứng toàn thân: Sau khi tác động vào huyệt (châm cứu, bấm huyệt) từng luồng xung động thần kinh sẽ truyền vào tủy sống dẫn truyền lên hành tủy và vỏ não, vỏ não chuyển sang trạng thái hưng phấn hay ức chế đáp ứng khác nhau lên các tuyến nội tiết nhằm điều hòa đối với việc bài tiết từng hormon cụ thể.
Nhờ đó mà ảnh hưởng tới các cơ quan mà nó chi phối, các chất thể dịch như adrenalin, histamine, acetycholin đặc biệt là endorphin cũng có sự biến đổi ảnh hưởng đến các hệ tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, bài tiết và chuyển hóa chất.
Tại Trung Quốc, Đào Hữu Minh và Triệu Kim Sinh (2004) đã nghiên cứu lâm sàng điều trị chứng thất ngôn sau ĐQN bằng phương pháp kết hợp đầu châm và thiệt châm tại Viện Lâm sàng số 2- Trường Đại Học Trung Y dược Nam Kinh-Trung Quốc. Kết quả cho thấy chức năng ngôn ngữ của nhóm nghiên cứu cải thiện rõ rệt hơn nhóm đối chứng (p < 0,01).
Vũ Tiền, Hồ Tiểu Thanh, Văn Tú Vân cùng cộng sự (2016) đã nghiên cứu lâm sàng trên 60 bệnh nhân mất ngôn ngữ sau đột quỵ được chia thành hai nhóm, nhóm nghiên cứu được điều trị bằng phương pháp châm cứu Tâm- Đởm, nhóm đối chứng được điều trị bằng châm cứu thông thường tại Đại học Trung y Quảng Châu,
Bệnh viện tỉnh Quảng Đông, Đại học y phía nam Thâm Quyến thu được kết quả chức năng ngôn ngữ của nhóm nghiên cứu cải thiện rõ rệt hơn nhóm chứng (p <0,05).

Bạn đọc có băn khoăn hay thắc mắc gì thì có thể liên hệ trực tiếp qua Hotline – 0789.502.555 để được hỗ trợ nhé!
Ở Việt Nam, Lê Văn Hải (2001) nghiên cứu trên 51 bệnh nhân rối loạn phát âm do tai biến mạch máu não tại Viện Châm cứu Việt Nam, được điều trị bằng điện châm theo phác đồ huyệt của Nguyễn Tài Thu kết quả cho thấy tỷ lệ BN có cải thiện độ thất ngôn đạt 78,4% trong đó tỷ lệ BN chuyển được trên 2 độ thất ngôn đạt 41,2%, BN chuyển 1 độ thất ngôn đạt 37,2%.
Trần Thị Tiến (2012) tiến hành nghiên cứu trên 45 bệnh nhân thất vận ngôn trên NMN sau giai đoạn cấp tại Viện Châm cứu Trung ương và Bệnh viện YHCT Trung ương cho thấy tỷ lệ hồi phục là 97,7% (tốt 55,5%; khá 42,2%).
Nguyễn Thanh Thủy (2013) đánh giá tác dụng của điện châm điều trị chứng thất ngôn do xuất huyết ở bán cầu đại não sau giai đoạn cấp theo phác đồ của khoa YHCT bệnh viện Bạch Mai thấy tỷ lệ BN có cải thiện độ thất ngôn đạt 63,4% trong đó tỷ lệ BN chuyển được trên 2 độ thất ngôn đạt 23,4%, BN chuyển 1 độ thất ngôn đạt 40%.
Điều trị dùng thuốc Y Học Cổ Truyền
Đối với Thất ngôn hậu trúng phong, khi điều trị cần điều trị di chứng sau trúng phong, kết hợp châm cứu, phục hồi chức năng với dùng thuốc. Dưới đây là các bài thuốc Phòng khám Tuệ Y Đường chia sẻ đến bạn đọc, dựa theo từng thể bệnh, chứng bệnh cụ thể của bệnh nhân sẽ gia giảm vị thuốc cho phù hợp:
Thể Can Thận âm hư:
- Thục địa 12g
- Sơn thù 12g
- Sơn dược 12g
- Phục linh 08g
- Trạch tả 08g
- Đan bì 08g
Thể phong đàm:
Dùng bài “Đạo đàm thang” gia giảm tùy theo chứng để Kiện tỳ, trừ đàm, thông lạc. Thành phần gồm:
- Bán hạ chế 12g
- Trần bì 08g
- Phục linh 12g
- Cam thảo 06g
- Đởm nam tinh 12g
- Đẳng sâm 12g
- Trúc nhự 04g
- Xương bồ 12g
- Đại táo 12g
- Sinh khương 3 lát

Thể khí hư huyết ứ:
Dùng bài “Bổ dương hoàn ngũ thang” gia giảm tùy theo chứng để Ích khí hoạt huyết thông lạc. Thành phần gồm:
- Quy vĩ 12g
- Sinh hoàng kỳ 20g
- Địa long 06g
- Đào nhân 08g
- Hồng hoa 08g
- Xuyên khung 10g
- Xích thược 12g
Nếu như các bạn có câu hỏi gì, vui lòng liên hệ trực tiếp với Phòng Khám Tuệ Y Đường – 166 Nguyễn Xiển. Xin trân trọng cảm ơn!