Liệt dây thần kinh 7 ngoại biên – MÉO MẶT

Liệt thần kinh 7 (liệt mặt ngoại biên) thường nguyên phát (trước đây gọi là liệt Bell). Liệt mặt nguyên phát diễn ra đột ngột, liệt mặt ngoại biên một bên. Triệu chứng là liệt cả nửa trên và nửa dưới của nửa mặt.

Các xét nghiệm (ví dụ, chụp X-quang ngực, nồng độ men chuyển angiotensin [ACE], xét nghiệm bệnh Lyme, glucose huyết thanh) được thực hiện để chẩn đoán nguyên nhân có thể điều trị được. Điều trị bao gồm giữ ẩm cho mắt, sử dụng miếng che mắt, và, đối với liệt mặt nguyên phát, có thể dùng corticosteroid

Vậy cách nhận biết và xử trí suy giãn tĩnh mạch chi dưới như thế nào? Hãy cùng Phòng khám Tuệ Y Đường tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây

Bài viết được tham vấn chuyên môn bởi Bác Sĩ CKI. Nguyễn Nhật Minh 

Các biểu hiện của liệt dây thần kinh số 7
Các biểu hiện của liệt dây thần kinh số 7

Căn nguyên của liệt dây thần kinh 7

Đầu tiên, nguyên nhân của liệt Bell được quan niệm là do liệt dây thần kinh 7 ngoại biên nguyên phát. Tuy nhiên, liệt thần kinh mặt hiện nay được xem là một hội chứng lâm sàng với chẩn đoán phân biệt riêng, và thuật ngữ “Liệt Bell” không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với liệt thần kinh mặt nguyên phát. Khoảng một nửa trường hợp liệt thần kinh mặt là nguyên phát.

Cơ chế cho những gì trước đây được cho là liệt mặt vô căn là có lẽ là phù nề thần kinh mặt do rối loạn miễn dịch hoặc virus. Bằng chứng hiện nay cho thấy rằng nguyên nhân vi rút thường gặp. Nhiễm herpes simplex (thường gặp). Herpes zoster (có thể là phổ biến thứ hai)

Các vi rút khác có thể là căn nguyên bao gồm coxsackievirus, cytomegalovirus, adenovirus và Epstein-Barr, các vi rút quai bị, rubella và cúm B. Các dây thần kinh phù nè bị chèn ép tối đa khi nó đi qua phần mê đạo của ống thần kinh mặt, dẫn đến thiếu máu cục bộ và liệt.

Các bệnh lý khác (như tiểu đường, bệnh Lyme, bệnh sarcoid) có thể gây ra liệt dây thần kinh 7. Bệnh Lyme có thể gây ra liệt dây thần kinh mặt, không giống như liệt Bell, có thể là hai bên. Đặc biệt ở người Mỹ gốc Phi, bệnh sarcoid là nguyên nhân phổ biến của bệnh liệt dây thần kinh mặt và có dây thần kinh 7 thể là hai bên.

Sinh lý bệnh của liệt dây thần kinh 7

Các cơ mặt được chi phối ngoại biên (chi phối sau nhân) bởi  cùng bên và chi phối trung ương (chi phối trước nhân) bởi vỏ não đối bên. Thần kinh trung ương có xu hướng chi phối hai bên với mặt trên (ví dụ như các cơ trán) và một bên đối với mặt dưới.

Do đó, cả tổn thương trung ương và ngoại biên có xu hướng làm liệt mặt dưới. Tuy nhiên, các tổn thương ngoại biên (tổn thương dây thần kinh mặt) có xu hướng ảnh hưởng đến mặt trên hơn tổn thương trung ương (ví dụ như đột quỵ).

Các triệu chứng và dấu hiệu của liệt dây thần kinh mặt

Đau sau tai thường xuất hiện trước liệt mặt ở liệt dây thần kinh 7 nguyên phát. Liệt, thường là liệt hoàn toàn, tiến triển trong vòng vài giờ và thường tối đa trong vòng 48 đến 72 giờ.

Bệnh nhân có thể báo hiệu cảm giác tê hoặc nặng mặt. Phía mặt liệt trở nên bằng phẳng và mất biểu cảm; mất hoặc giảm khả năng nhăn trán, nháy mắt, và nhăn mặt. Trong những trường hợp nặng, khe mắt mở rộng và mắt nhắm không kín, thường gây kích ứng kết mạc và làm khô giác mạc.

Khám cảm giác bình thường, nhưng ống tai ngoài và một vùng da nhỏ phía sau tai (trên xương chũm) có thể đau khi chạm vào. Nếu tổn thương thần kinh gần với hạch gối, khả năng tiết nước bọt, vị giác, và chảy nước mắt có thể bị suy giảm, và xuất hiện tăng nhạy cảm với âm thanh.

Ca liệt 7 điều trị thành công tại phòng khám Tuệ Y Đường
Ca liệt dây thần kinh 7 điều trị thành công tại phòng khám Tuệ Y Đường

Chẩn đoán liệt dây thần kinh mặt

Đánh giá lâm sàng: X-quang hoặc CT ngực, xét nghiệm nồng độ ACE huyết thanh để chẩn đoán sarcoidosis, MRI nếu khởi phát từ từ hoặc các thiếu sót thần kinh khác hiện diện.

Các xét nghiệm khác dựa trên các dấu hiệu lâm sàng

Liệt dây thần kinh 7 được chẩn đoán dựa trên đánh giá lâm sàng. Không có xét nghiệm chẩn đoán đặc hiệu.

Liệt thần kinh mặt có thể được chẩn đoán phân biệt được với tổn thương thần kinh mặt trung ương (do đột quỵ hoặc khối u), gây liệt chủ yếu ở vùng mặt dưới, trừ cơ trán và bệnh nhân có thể nhăn trán; ngoài ra, bệnh nhân có tổn thương trung ương thường có thể nhăn trán và nhắm kín mắt.

Thông thường, bác sĩ lâm sàng cũng có thể phân biệt liệt thần kinh mặt tự phát với các bệnh lý khác gây liệt mặt ngoại vi dựa trên các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng của chúng; những rối loạn này bao gồm:

Zona tai (Hội chứng Ramsay Hunt). Nhiễm trùng tai giữa hoặc xương chũm

Sarcoidosis, bệnh Lyme, vỡ xương đá, ung thư ác tính hoặc bệnh bạch cầu lympho xâm nhập dây thần kinh, Viêm màng não mạn tính, u góc cầu tiểu não hoặc u cuộn mạch lỗ rách sau, bệnh tiểu đường

Ngoài ra, các rối loạn khác gây liệt mặt ngoại vi thường tiến triển chậm hơn liệt thần kinh mặt. Vì vậy, nếu bệnh nhân có bất kỳ triệu chứng cơ năng hoặc thực thể nào tiến triển từ từ, nên tiến hành chụp MRI.

Trong liệt dây thần kinh 7 nguyên phát, MRI có thể cho thấy tăng sự tương phản dây thần kinh 7 ở hai vị trí gần hạch gối và dọc theo nguyên ủy của dây thần kinh. Tuy nhiên, hiện tượng tăng tương phản có thể phản ánh các nguyên nhân khác, như u màng não.

Nếu liệt tiến triển trong vài tuần tới vài tháng, nhiều khả năng là do khối u (ví dụ, phổ biến nhất là u tế bào Schwann) chèn ép các dây thần kinh mặt. MRI cũng có thể giúp loại trừ các bệnh lý cấu trúc khác gây liệt mặt. CT thường âm tính trong liệt Bell, nhưng vẫn được làm nếu nghi ngờ gãy xương hoặc có nguy cơ đột quỵ trong khi không chụp ngay được MRI.

Ngoài ra, các xét nghiệm huyết thanh học chẩn đoán Lyme nên được thực hiện nếu bệnh nhân đã ở trong khu vực lưu hành của bệnh ve và bệnh Lyme.

Đối với tất cả các bệnh nhân, chụp X-quang ngực hoặc CT và đo nồng độ ACE trong huyết thanh để chẩn đoán loại trừ sarcoidosis. Xét nghiệm máu được thực hiện để kiểm tra bệnh tiểu đường. Xét nghiệm virus không hữu ích.

Điều trị viêm da đầu bằng các dược liệu Đông Y
Điều trị liệt dây thần kinh 7 bằng các dược liệu Đông Y

Tiên lượng về liệt dây thần kinh 7

Trong chứng liệt thần kinh 7 ngoại biên nguyên phát, mức độ tổn thương thần kinh quyết định tiên lượng. Nếu một số chức năng vẫn còn, bệnh nhân thường phục hồi hoàn toàn trong vòng vài tháng. Tiến hành các khảo sát dẫn truyền thần kinh và điện cơ để giúp dự đoán kết cục. Khả năng hồi phục hoàn toàn sau khi liệt hoàn toàn là 90% nếu các nhánh thần kinh ở mặt vẫn bảo tồn đáp ứng bình thường đối với kích thích điện cực trên, và chỉ khoảng 20% nếu vắng mặt đáp ứng với các kích thích điện.

>>>> Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: Điều trị mất ngủ bằng y học cổ truyền như thế nào?

Có thể có sự sai lệch trong phục hồi các sợi thần kinh, phân bố thần kinh vùng mặt dưới thấp hơn với các sợi quanh mắt và ngược lại. Điều này dẫn đến kết quả là sự co cơ không mong đợi trong quá trình chuyển động mặt hữu ý (đồng động), hoặc hiện tượng tiết nước mắt khi tiết nước bọt. Liệt mặt lan tỏa mạn tính có thể dẫn tới tình trạng co cứng nửa mặt.

Điều trị liệt dây thần kinh mặt

Bảo vệ giác mạc

Corticosteroid trong trường hợp liệt dây thần kinh 7 nguyên phát

Duy trì độ ẩm giác mạc bằng nước mắt tự nhiên, nước muối sinh lý, thuốc nhỏ giọt methylcellulose và sử dụng liên tục băng keo hoặc tấm che nhằm che phủ mắt, đặc biệt là khi đi ngủ. Đôi khi, cần chỉ định phẫu thuật khâu dính mi.

Trong liệt dây thần kinh 7 nguyên phát, nên bắt đầu sử dụng corticosteroid trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát, giúp phục hồi nhanh hơn và hoàn thiện hơn. Prednisone 60 đến 80 mg uống một lần/ngày trong tuần đầu, sau đó giảm dần trong tuần thứ 2.

Sử dụng các thuốc kháng vi rút herpes simplex (ví dụ, valacyclovir 1 g uống 3 lần mỗi ngày trong khoảng từ 7 đến 10 ngày, famciclovir 500 mg uống 3 lần mỗi ngày trong 5 đến 10 ngày, acyclovir 400 mg uống 5 lần mỗi ngày trong 10 ngày), nhưng các dữ liệu gần đây không cho thấy ích lợi của các loại thuốc này.

Liệt thần kinh 7 ngoại biên theo YHCT

 Biệt danh: Khẩu nhãn oa tà

Nguyên nhân

– Bệnh do phong hàn xâm nhập vào mạch lạc của các kinh dương ở mặt làm cho sự lưu thông khinh khí bị trở ngại, khí huyết không được điều hòa, kinh cân mất dinh dưỡng, cân nhục mềm nhẽo gây lên bệnh

  Mặt khác khi cơ thể ở tình trạng vệ khí hư, chính khí yếu do các nguyên nhân bên trong hoặc bên ngoài, bệnh tà nhân cơ hội xâm nhập vào các kinh mạch lạc mạch của cơ thể làm khí huyết trong kinh lạc bị ứ trệ dẫn đến rối loạn hoạt động của các cơ quan bộ phận trong cơ thể mà tạo nên bệnh

– Do phong nhiệt tà xâm phạm vào kinh mạch, làm kinh cân thiếu dinh dưỡng mà gây nên. Nhiệt tà hay gây sốt và chứng viêm viêm nhiệt, thiếu đốt tân dịch

– Do sang chấn gây ra huyết ứ ở kinh lạc, từ đó mà gây liệt  

 Điều trị:

Tuỳ từng nguyên nhân sẽ có phương pháp điều trị khác nhau. Trong dó bao gồm 2 phương pháp:

– Phương pháp không dùng thuốc: châm, điện châm, ôn châm, XBBH

– Phương pháp dùng thuốc: Thuốc thang, thủy châm

Sử dụng phương pháp châm cứu trong điều trị liệt dây thần kinh số 7
Sử dụng phương pháp châm cứu trong điều trị liệt dây thần kinh 7

????? Bạn đọc có bất kỳ thắc mắc về vấn đề bệnh lý cơ xương khớp vui lòng liên hệ hotline: 0789.503.555 để được tư vấn trực tiếp!

Điều trị cụ thể:

Thể phong hàn (Liệt thần kinh 7 ngoại biên do lạnh)

+ Phương pháp điều trị: Khu phong, tán hàn, hành khí, hoạt huyết

+ Bài thuốc: Khương hoạt 08g, độc hoạt 08g, tần giao 08g, bạch chỉ 08g, xuyên khung 08g, cam thảo 04g, phòng phong 08g, đương quy 08g, thục địa 12g, bạch thược 08g, bạch truật 08g, bạch linh 08g. Sắc ngày uống 01 thang

+ Điện châm: Ngày 01 lần mỗi lần 20 phút

Huyệt tại chỗ: toản trúc, tình minh, ty trúc không, dương bạch, địa thương, giáp xa, ế phong…

Huyệt toàn thân: hợp cốc bên đối diện

+ Xoa bóp bấm huyệt: các huyệt ở trên. Ngày 01 lần mỗi lần 20 phút

+ Thủy châm: vitamin nhóm B. Thủy châm ngày 01 lần

Thể phong nhiệt: (Liệt thần kinh 7 ngoại biên do nhiễm trùng)

+Pháp điều trị: Khu phong, thanh nhiệt, hoạt huyết (khi có sốt)

Khu phong, dưỡng huyết, thông kinh hoạt lạc (khi hết sốt)

+Bài thuốc: Kim ngân hoa 16g, bồ công anh 16g, thổ phục linh 12g, kế đầu ngựa 12g, xuyên khung 12g, đan sâm 12g, ngưu tất 12g. Sắc ngày uống 01 thang

+ Điện châm: Ngày 01 lần mỗi lần 20 phút

Huyệt tại chỗ: Toản trúc, tình minh, ty trúc không, dương bạch, địa thương, giáp xa, ế phong…

Huyệt toàn thân: Khúc trì, nội đình

+Xoa bóp bấm huyệt: Các huyệt ở trên. Ngày 01 lần mỗi lần 20 phút

+Thủy châm: vitamin nhóm B. Thủy châm ngày 01 lần

>>>>> Có thể bạn quan tâm: Chứng tý theo y học cổ truyền

Thể huyết ứ: (Liệt thần kinh 7 ngoại biên do sang chấn)

   Phương pháp điều trị: Hành khí hoạt huyết

+ Bài thuốc: Đan sâm 12g, xuyên khung 12g, ngưu tất 12g, tô mộc 8g, chỉ xác 6g, trần bì 6g, hương phụ 08g, uất kim 8g

+ Điện châm: Ngày 01 lần mỗi lần 20 phút

Huyệt tại chỗ: toản trúc, tình minh, ty trúc không, dương bạch, địa thương, giáp xa, ế phong…

Huyệt toàn thân: huyết hải, túc tam lý.

+ Xoa bóp bấm huyệt: các huyệt ở trên. Ngày 01 lần mỗi lần 20 phút

+ Thủy châm: vitamin nhóm B. Thủy châm ngày 01 lần

Điều trị CXK tại Tuệ Y Đường
Điều trị liệt dây thần kinh 7 tại Tuệ Y Đường

Mọi đóng góp xin gửi về:

Facebook: Tuệ Y Đường

️ Bác sĩ CKI Nguyễn Nhật Minh

️  Bác sĩ Đoàn Dung

Địa chỉ: 166 Nguyễn Xiển – Hạ Đình – Thanh Xuân – Hà Nội

Hotline: 0789.501.555 – 0789.502.555 – 0789.503.555

Tin liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *