BÀNG QUANG TĂNG HOẠT – TRIỆU CHỨNG, CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ

Bàng quang tăng hoạt là một thể rối loạn chức năng của bàng quang do tăng co thắt cơ bàng quang quá mức và thường xuyên kết hợp với mất tương hợp hoạt động bàng quang – cơ thắt niệu đạo. Tình trạng tăng hoạt là do sự co bóp không chủ ý của cơ bàng quang xuất hiện khi bệnh nhân kiềm chế phản xạ đi tiểu.

Theo Hiệp hội tiểu tiện tự chủ quốc tế, chẩn đoán bàng quang tăng hoạt khi có các triệu chứng “tiểu gấp thường đi kèm với tiểu nhiều lần và tiểu đêm, có hay không có tiểu gấp không kiểm soát mà không có bằng chứng về nhiễm trùng hay các bệnh căn khác”.

Bàng quang tăng hoạt tuy không nguy hiểm tới tính mạng nhưng gây ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống, năng suất lao động và gánh nặng kinh tế cho bản thân người bệnh và xã hội. Các phương pháp điều trị hội chứng bàng quang tăng hoạt bao gồm liệu pháp hành vi, liệu pháp dược lý, can thiệp và phẫu thuật trong đó điều trị bằng nhóm thuốc kháng thụ thể muscarinics là biện pháp phổ biến nhất.

Bàng Quang tăng hoạt - Triệu chứng, chẩn đoán và điều trị
Bàng Quang tăng hoạt – Triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Mời các bạn cùng tìm hiểu Bàng quang tăng hoạt dưới sự tham vấn của Bác sĩ chuyên khoa II Trần Thị Thu Huyền – trưởng khoa khám bệnh Phòng khám Đông y Tuệ Y Đường.

Bàng quang tăng hoạt nguyên phát theo y học hiện đại

1. Khái niệm

Thuật ngữ bàng quang tăng hoạt để chỉ sự rối loạn trong giai đoạn đổ đầy nước tiểu của bàng quang. Tình trạng bàng quang tăng hoạt là do sự co bóp không tự chủ của cơ bàng quang trong khi bệnh nhân vẫn đang kiềm chế phản xạ đi tiểu.

Abrams và Wein đã đề nghị định nghĩa bàng quang tăng hoạt như sau: bàng quang tăng hoạt là tình trạng liên quan đến tiểu gấp thường kèm theo tiểu nhiều lần và tiểu đêm, có hoặc không có tiểu gấp không kiểm soát, các biểu hiện này xuất hiện mà không có các tổn thương bệnh lý tại chỗ hoặc không có các tác nhân chuyển hóa có thể gây ra các triệu chứng trên.

bàng quang tăng hoạt để chỉ sự rối loạn trong giai đoạn đổ đầy nước tiểu của bàng quang. Tình trạng bàng quang tăng hoạt là do sự co bóp không tự chủ của cơ bàng quang trong khi bệnh nhân vẫn đang kiềm chế phản xạ đi tiểu.
bàng quang tăng hoạt để chỉ sự rối loạn trong giai đoạn đổ đầy nước tiểu của bàng quang. Tình trạng bàng quang tăng hoạt là do sự co bóp không tự chủ của cơ bàng quang trong khi bệnh nhân vẫn đang kiềm chế phản xạ đi tiểu.

2. Dịch tễ học 

Kết quả cho thấy tỷ lệ bàng quang tăng hoạt là 12,2% trong đó nam là 9,89% và nữ 14,58%, tỷ lệ BQTH khô là 9,7% và BQTH ướt là 2,5%.13 Nghiên cứu tỷ lệ mắc và phân bố bệnh bàng quang tăng hoạt của người từ 40 tuổi trở lên tại Duy Tiên tỉnh Hà Nam năm 2016 của tác giả Nguyễn Thị Thủy Nguyên cho thấy tỷ lệ mắc OAB ở nam giới là 10,08% (OAB khô 6,6%, OAB ướt 4,2%), nữ giới là 19,2% (OAB khô 11,7%, OAB ướt là 7,5%).

3. Sinh lý bệnh bàng quang tăng hoạt

Sinh lý bệnh hội chứng của bàng quang tăng hoạt nguyên phát vẫn là chủ đề của cuộc tranh luận và nghiên cứu khoa học đang diễn ra. Benoit Peyronnet và cộng sự năm 2019 cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về sinh lý bệnh bàng quang tăng hoạt trong một nỗ lực để làm rõ sự phức tạp cơ bản của khái niệm bàng quang tăng hoạt “vô căn” và đề xuất một sự thay đổi đối với danh pháp chính xác hơn là bàng quang tăng hoạt đa nhân tố.

Rõ ràng các cơ chế khác nhau có thể kích thích cảm giác tiểu gấp. Các bằng chứng trong vài năm trở lại đây đã chỉ ra rằng hội chứng chuyển hóa, rối loạn tâm thần, thiếu hụt hormone sinh dục, hệ vi sinh vật tiết niệu, rối loạn chức năng đường tiêu hóa và rối loạn chức năng hệ thần kinh tự chủ đều có thể liên quan đến bàng quang tăng hoạt và bàng quang tăng hoạt có thể có hệ sinh lý bệnh cụ thể.

Các cơ chế này không loại trừ lẫn nhau mà chúng thường chồng chéo lên nhau, điều này có thể cung cấp một cơ sở lý luận chắc chắn cho liệu pháp kết hợp, gia tăng cơ hội điều trị thành công.

>> Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: ĐIỀU TRỊ THẤT MIÊN BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN

4. Yếu tố nguy cơ của hội chứng bàng quang tăng hoạt

Có nhiều yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân có hội chứng bàng quang tăng hoạt trong đó có các yếu tố có thể thay đổi được và các yếu tố không thể thay đổi được, bao gồm:

  • Tuổi: tuổi tác có lẽ là yếu tố nguy cơ được biết đến nhiều nhất để phát triển OAB. Tỷ lệ hiện mắc bàng quang tăng hoạt tăng theo độ tuổi lên 30,9% ở những người trên 65 tuổi.
  • Giới: một số nghiên cứu chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ mắc bệnh giữa hai giới.2,18,19 Một số nghiên cứu khác lại không cho thấy sự khác biệt.
  • BMI: tình trạng béo phì làm nặng hơn triệu chứng của bàng quang tăng hoạt và tiểu không kiểm soát.
  • Sử dụng đồ uống có ga hoặc caffeine: đồ uống có ga hoặc chứa caffeine có tính lợi tiểu hoặc gây kích thích bàng quang.
  • Hút thuốc lá: thuốc lá có liên quan mật thiết tới triệu chứng đường tiết niệu dưới ở nam giới và triệu chứng tiểu gấp và són tiểu ở nữ giới.
  • Mãn kinh: ở phụ nữ, tình trạng sau mãn kinh cũng có liên quan đến sự gia tăng các triệu chứng bàng quang tăng hoạt. Mối liên quan này được cho là có liên quan đến mức độ estrogen thấp hơn sau khi mãn kinh. Các thụ thể estrogen đã được phát hiện trong âm đạo, niệu đạo, bàng quang và cơ sàn chậu.
Mãn kinh: ở phụ nữ, tình trạng sau mãn kinh cũng có liên quan đến sự gia tăng các triệu chứng bàng quang tăng hoạt
Mãn kinh: ở phụ nữ, tình trạng sau mãn kinh cũng có liên quan đến sự gia tăng các triệu chứng bàng quang tăng hoạt

5. Chẩn đoán bàng quang tăng hoạt

Theo Hiệp hội tiểu tiện tự chủ quốc tế, chẩn đoán bàng quang tăng hoạt khi có sự hiện diện của triệu chứng tiểu gấp thường kèm theo tiểu nhiều lầntiểu đêm, có hoặc không có tiểu gấp không kiểm soát. Các biểu hiện trên xuất hiện mà không có nhiễm trùng tiết niệu, không có các tổn thương bệnh lý tại chỗ hoặc không có các tác nhân chuyển hóa kèm theo có thể gây ra các triệu chứng trên.

Trong định nghĩa này triệu chứng tiểu gấp là tiêu chuẩn vàng. Chẩn đoán BQTH khi có triệu chứng tiểu gấp kèm theo một trong các triệu chứng còn lại. Bàng quang tăng hoạt được chia làm 2 thể:

  • BQTH khô: bàng quang tăng hoạt không kèm tiểu gấp không kiểm soát.
  • BQTH ướt: bàng quang tăng hoạt có kèm theo tiểu gấp không kiểm soát.

>> Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: CHÀM VI KHUẨN – NGUY HIỂM RÌNH RẬP

Các công cụ chẩn đoán bàng quang tăng hoạt

Do chẩn đoán bàng quang tăng hoạt chỉ dựa vào triệu chứng hỏi bệnh nên việc khai khác các triệu chứng phản hồi của bệnh nhân được xem là rất quan trọng. Triệu chứng bàng quang tăng hoạt thường được định lượng bằng đếm số lần đi tiểu, số lần tiểu gấp, số lần són tiểu. Tuy nhiên bàng quang tăng hoạt là một hội chứng bao gồm nhiều triệu chứng phức tạp nên không thể đánh giá đầy đủ chỉ bằng cách đếm số lần.

Các công cụ thường dùng nhất trong chẩn đoán và theo dõi bệnh nhân có hội chứng bàng quang tăng hoạt là nhật kí đi tiểu 3 ngày và bảng câu hỏi triệu chứng bàng quang tăng hoạt (OABSS).

Nội dung Nhật kí đi tiểu gồm:

  • Ngày giờ đi tiểu
  • Số lượng nước tiểu mỗi lần đi tiểu
  • Tình trạng đi tiểu (tiểu thường, tiểu gấp, tiểu không kiểm soát…)
  • Lượng nước và loại nước uống vào

Đây là khảo sát lâm sàng cần thiết để chẩn đoán, chẩn đoán phân biệt với các loại bệnh gây tiểu nhiều lần khác như: tiểu nhiều trong đái tháo đường, đái tháo nhạt, tiểu không kiểm soát khi gắng sức, tiểu không kiểm soát do tràn đầy… và để theo dõi hiệu quả điều trị.

6. Lâm sàng và cận lâm sàng

6.1. Tiền sử

– Một số bệnh phối hợp cũng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng của bàng quang và gây nên các triệu chứng đường tiết niệu dưới bao gồm:

  • Các bệnh thần kinh: đột quỵ, bệnh đa xơ cứng và tổn thương tủy sống sau chấn thương, Parkinson.
  • Các bệnh lý nội khoa mạn tính: đái tháo đường, nhiễm khuẩn đường tiết niệu tái diễn, suy giảm nhận thức…

– Các thuốc đang dùng có thể ảnh hưởng tới chức năng tiết niệu, ví dụ: thuốc ức chế men chuyển, thuốc lợi tiểu, thuốc kháng cholinergic, thuốc chẹn kênh canxi và thuốc an thần kinh.

6.2. Triệu chứng lâm sàng

Các dấu hiệu và triệu chứng của bàng quang hoạt động quá mức có thể là:

  • Mót tiểu đột ngột đòi hỏi phải đi tiểu ngay. Đây là triệu chứng bắt buộc của hội chứng bàng quang tăng hoạt. Không được báo trước mà bất chợt cảm giác muốn đi tiểu kéo đến và khó có thể cưỡng lại được nên phải chạy đi tiểu ngay sau đó.
  • Khó kiểm soát đi tiểu như khó nhịn tiểu, tiểu són không tự chủ:
    • Tiểu gấp có kiểm soát: có cảm giác buồn tiểu một cách đột ngột, cần phải đi tiểu ngay, còn tiểu tiện có kiểm soát.
    • Tiểu gấp không kiểm soát: không thể tự chủ theo sau cảm giác tiểu gấp. Các trường hợp mắc hội chứng bàng quang tăng hoạt có tiểu gấp không kiểm soát với các biểu hiện sau: không kịp vào nhà vệ sinh mà nước tiểu đã ra ngay sau khi muốn đi tiểu, tiểu dầm khi ngủ, tiểu bất ngờ không kiểm soát hoặc nước tiểu ra quần ngoài sự kiểm soát vào ban ngày.
  • Tiểu nhiều lần: ≥ 8 lần trong ngày (tính từ lúc tỉnh dậy tới trước khi đi ngủ) mặc dù không uống quá nhiều nước hay các chất kích thích đường tiểu.
  • Thường đi tiểu đêm: ≥ 2 lần trong đêm
  • Trường hợp nặng thì đái dầm ngắt quãng (đái dầm cách hồi)
  • Không có tiểu buốt. Số lượng nước tiểu trong ngày ≤ 2 l/ngày (không có đa niệu).
Mót tiểu đột ngột đòi hỏi phải đi tiểu ngay. Đây là triệu chứng bắt buộc của hội chứng bàng quang tăng hoạt. Không được báo trước mà bất chợt cảm giác muốn đi tiểu kéo đến và khó có thể cưỡng lại được nên phải chạy đi tiểu ngay sau đó.
Mót tiểu đột ngột đòi hỏi phải đi tiểu ngay. Đây là triệu chứng bắt buộc của hội chứng bàng quang tăng hoạt. Không được báo trước mà bất chợt cảm giác muốn đi tiểu kéo đến và khó có thể cưỡng lại được nên phải chạy đi tiểu ngay sau đó.

6.3. Khám thực thể

  • Khám bụng: Đánh giá các vết sẹo, khối u, khối thoát vị, các vùng đau, đặc biệt chú ý thăm khám cầu bàng quang
    • Bệnh nhân nam giới cần thăm trực tràng, bộ phận sinh dục để khảo sát tiền liệt tuyến.
    • Bệnh nhân nữ giới cần thăm khám tầng sinh môn để lại trừ các rối loạn sàn chậu (co cứng sàn chậu hoặc sa cơ quan vùng chậu).
  • Khám phù chi dưới.

6.4. Cận lâm sàng

  • Tổng phân tích nước tiểu để sàng lọc và chẩn đoán phân biệt với bệnh nhân nhiễm khuẩn tiết niệu và tiểu máu.
  • Đo nước tiểu tồn dư được tiến hành qua siêu âm ngay sau khi bệnh nhân đi tiểu hết bãi. Trường hợp không có siêu âm thì có thể tiến hành bằng cách đặt sonde tiểu.
  • Đánh giá chuyên sâu những người bệnh có mức độ triệu chứng bệnh nặng, phức tạp như:
    • Đo niệu động học: là một test sinh lý cho phép chúng ta đánh giá chức năng của bàng quang và niệu đạo. Nó cho chúng ta biết các thông số về niệu dòng, áp lực bàng quang và áp lực dòng tiểu.
    • Đo điện thần kinh bàng quang cho phép đánh giá sự bất tương hợp bàng quang cơ thắt.
    • Nội soi bàng quang: không có tác dụng trong chẩn đoán bàng quang tăng hoạt nhưng trong trường hợp khó soi bàng quang có thể giúp loại trừ các trường hợp ung thư bàng quang.

Bạn đọc có vấn đề về phụ khoa – da liễu có thể liên hệ trực tiếp qua Hotline 0789503555 để được hỗ trợ nhé! 

7. Điều trị

7.1. Liệu pháp hành vi

Liệu pháp hành vi được xem xét là liệu pháp điều trị đầu tiên cho tất cả bệnh nhân OAB, bao gồm:

Lành mạnh hóa thói quen bàng quang và điều chỉnh lối sống.

  • Giáo dục cho bệnh nhân hiểu thế nào là bàng quang có chức năng bình thường và thế nào là bất thường.

Đây là cơ sở để bệnh nhân nhận thức và thực hiện tốt những bài hướng dẫn về thay đổi thói quen đi tiểu, tập luyện bàng quang và thay đổi lối sống nhằm mục tiêu đưa chức năng bàng quang trở về sinh lý bình thường.

  • Hướng dẫn bệnh nhân viết “nhật ký đi tiểu”.

Nḥât ký đi tiểu là cơ sở dữ liệu để bác sĩ cũng như bệnh nhân nhận biết mức độ của BQTH và về sau giúp theo dõi hiệu quả điều trị.

Mẫu nhật ký đi tiểu đơn giản, ghi lại thời điểm đi tiểu, thời điểm tiểu gấp hoặc tiểu không tự chủ, lượng nước tiểu của mỗi lần đi tiểu, ghi nhận thời điểm, loại và lượng nước uống vào.

Nhật ký đi tiểu nên thực hiện từ 3 – 7 ngày để đảm bảo kết quả có giá trị. Ghi chú càng nhiều thì có càng nhiều dữ kiện để bác sĩ xem xét nguyên nhân và đưa ra những tư vấn chi tiết hơn cho bệnh nhân.

  • Tập đi tiểu theo giờ:

Nhiều bệnh nhân cứ cố đi tiểu nhiều lần để tránh bị són tiểu mà không có ý thức về việc thói quen đi tiểu nhiều lần có thể làm nặng hơn tình trạng bệnh. Nên lập kế hoạch để bệnh nhân dần tập đi tiểu theo giờ, tập kìm nén cảm giác mắc tiểu nếu chưa đến thời gian quy định. Hướng dẫn bệnh nhân khoảng thời gian thích hợp giữa 2 lần đi tiểu là 3 – 4 giờ, và không nhất thiết cứ phải đi tiểu mỗi khi có cảm giác khác lạ trong bàng quang.

Việc quy định giờ cũng nên uyển chuyển: tùy theo dung tích chứa đựng của bàng quang, lượng nước uống hàng ngày, loại công việc, nhiệt độ của môi trường làm việc, cự ly và sự thuận lợi của nhà vệ sinh… của mỗi cá nhân.

  • Điều chỉnh chế độ ăn uống:

Một số thức ăn và thức uống có tính lợi tiểu hoặc gây kích thích bàng quang. Các loại nên kiêng dùng là caffein, bia rượu, thức uống có đường… Chất thường được nhắc đến là caffein, vì có rất nhiều người nghiện uống cà phê. Caffein vừa có tính lợi tiểu, vừa làm tăng sức co bóp cơ bàng quang, vừa làm tăng kích thích bàng quang.

  • Điều chỉnh lượng nước uống:

Uống nước quá nhiều sinh ra lượng tiểu nhiều dẫn đến tiểu nhiều lần, uống nước quá ít thì nước tiểu cô đặc dẫn đến kích thích niêm mạc bàng quang gây tiểu gấp và là điều kiện thuận lợi sinh ra nhiễm trùng tiết niệu.

Lượng nước uống cần thiết hàng ngày trung bình khoảng 1.500 – 2.000 ml hay 30ml/kg thể trọng. Cần điều chỉnh lượng nước uống vào của bệnh nhân theo điều kiện làm việc và sinh hoạt của bệnh nhân. Những bệnh nhân bị tiểu đêm nên hạn chế uống nước sau 6 giờ tối, hoặc từ 3 – 4 tiếng trước khi ngủ.

  • Kiểm soát thể trọng:

Béo phì làm tăng áp lực trong bụng, đè ép lên bàng quang và đáy chậu, làm nặng hơn các triệu chứng của BQTH và tiểu không kiểm soát. Vì thế, giảm cân là một biện pháp quan trọng nhằm cải thiện tình trạng rối loạn tiểu tiện.

  • Ngưng hút thuốc lá: Hút thuốc lá có liên quan mật thiết với triệu chứng đường tiết niệu dưới ở nam giới và với tiểu gấp và són tiểu gấp ở nữ giới.
Nhiều bệnh nhân cứ cố đi tiểu nhiều lần để tránh bị són tiểu mà không có ý thức về việc thói quen đi tiểu nhiều lần có thể làm nặng hơn tình trạng bệnh. Nên lập kế hoạch để bệnh nhân dần tập đi tiểu theo giờ, tập kìm nén cảm giác mắc tiểu nếu chưa đến thời gian quy định. Hướng dẫn bệnh nhân khoảng thời gian thích hợp giữa 2 lần đi tiểu là 3 – 4 giờ, và không nhất thiết cứ phải đi tiểu mỗi khi có cảm giác khác lạ trong bàng quang.
Nên lập kế hoạch để bệnh nhân dần tập đi tiểu theo giờ, tập kìm nén cảm giác mắc tiểu nếu chưa đến thời gian quy định. Hướng dẫn bệnh nhân khoảng thời gian thích hợp giữa 2 lần đi tiểu là 3 – 4 giờ, và không nhất thiết cứ phải đi tiểu mỗi khi có cảm giác khác lạ trong bàng quang.

✓ Các kĩ thuật tập luyện:

  • Tập kìm nén và kiểm soát tiểu gấp: bệnh nhân có triệu chứng tiểu gấp thường có thói quen chạy vội vào nhà vệ sinh mỗi khi mắc tiểu. Điều này làm tăng áp lực ổ bụng và dễ kích thích bàng quang nên càng làm trầm trọng triệu chứng.
  • Tập bài tập cơ sàn chậu: Bài tập Kegel tăng cường các cơ sàn chậu và cơ thắt niệu đạo rất quan trọng để giữ nước tiểu ngay cả khi bàng quang và cơ thắt mất tương hợp. Bài tập giúp tăng cường sức mạnh các cơ sàn chậu có thể giúp ngăn chặn các cơn co thắt không tự chủ của bàng quang. Có thể phải mất 6 đến 8 tuần trước khi nhận thấy sự khác biệt trong các triệu chứng.

7.2. Liệu pháp dược lý

Điều trị nội khoa được xem xét là liệu pháp điều trị thứ 2 đối với bệnh nhân OAB bao gồm đơn trị liệu hoặc kết hợp thuốc kháng muscarinicsthuốc chủ vận β3 – adrenoceptor

– Thuốc kháng muscarinics.

Thuốc kháng muscarinics hoạt động bằng cách ngăn chặn các thụ thể muscarinics trên cơ bàng quang do đó giảm khả năng co thắt của bàng quang.

Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm: khô miệng, khô da, rối loạn điều tiết thị giác, táo bón, giảm tiết mồ hôi… khiến bệnh nhân thường dừng thuốc sau 1 năm điều trị. Nếu bệnh nhân kiểm soát triệu chứng không đầy đủ và/hoặc các tác dụng phụ không thể chấp nhận được với một loại thuốc kháng muscarinics, thì có thể thử thay đổi liều hoặc một loại thuốc kháng muscarinics khác hoặc một chất chủ vận β3 – adrenoceptor.

Nếu có sẵn công thức giải phóng tức thời và giải phóng kéo dài, thì công thức giải phóng kéo dài nên được ưu tiên kê đơn hơn công thức giải phóng tức thời vì tỷ lệ khô miệng thấp hơn. Dạng qua da (TDS) (miếng dán hoặc gel) thường ít tác dụng phụ hơn đường uống.

– Thuốc chủ vận β3 – adrenoceptor (mirabegron): tác động lên thụ thể β3 adrenergic trong cơ chóp bàng quang, có tác dụng giãn cơ và gia tăng dung tích bàng quang. Tác dụng phụ bao gồm phản ứng dị ứng và tăng huyết áp.

7.3. Liệu pháp can thiệp

  • Tiêm Botulinum toxin A vào thành bàng quang
  • Kích thích thần kinh cùng: cấy một điện cực gần các dây thần kinh xương cùng, nơi nó chui ra khỏi xương cùng, sau đó sử dụng xung điện để kích thích bàng quang, giống như máy tạo nhịp tim cho tim. Nếu thành công trong việc giảm triệu chứng, dây điện cực được kết nối với một thiết bị có pin nhỏ đặt dưới da.
  • Kích thích thần kinh chày: Thần kinh chày chi phối các thần kinh bản thể và tự động của các cơ đáy chậu, cơ bàng quang và cơ thắt niệu đạo.4 Các biện pháp trên được xem xét là liệu pháp điều trị thứ 3 với bệnh nhân bàng quang tăng hoạt.

7.4. Phẫu thuật

Phẫu thuật để điều trị bàng quang tăng hoạt được dành cho những người có triệu chứng nặng, những người không đáp ứng với điều trị khác, bao gồm: phẫu thuật để tăng sức chứa của bàng quang và chuyển dòng nước tiểu.

=> Bệnh nhân cần thăm khám ngay khi có dấu hiệu bất thường để được bác sĩ tư vấn và điều trị kịp thời.

Nếu như các bạn có câu hỏi gì, vui lòng liên hệ trực tiếp với phòng khám Tuệ Y Đường – 166 Nguyễn Xiển. Xin trân trọng cảm ơn!

Tin liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *