Bệnh chốc (impetigo) là một nhiễm khuẩn nông thường gặp ở da, thường gặp ở trẻ em. Đặc trưng bởi mụn mủ, bọng nước và các vết trợt đóng vảy tiết màu mật ong. Nguyên nhân do vi khuẩn, thường gặp nhất là liên cầu và tụ cầu vàng. Chốc thường xuất hiện sau những tổn thương đã có từ trước đó như vết xước, vết trầy da, côn trùng cắn, thủy đậu hoặc bệnh da bọng nước…
Nguyên nhân, các yếu tố thuận lợi
Nguyên nhân gây chốc là vi khuẩn, thường gặp nhất là tụ cầu vàng và/hoặc liên cầu.
- Chốc không có bọng nước (nonbullous impetigo) có thể gây ra bởi liên cầu tan huyết beta nhóm A, tụ cầu và/hoặc liên cầu xâm nhập vào các vết thương nhỏ trên da, ở đó có các protein giúp vi khuẩn gắn chặt vào tổ chức.
- Chốc bọng nước (bullous impetigo) thường do độc tố bong da của tụ cầu (exfoliatin A-D) tác động vào cầu nối desmoglein 1 của các tế bào gai ở thượng bì, làm bóc tách lớp nông của thượng bì, tạo hình ảnh giống pemphigus vảy lá.
- Chốc loét thường do liên cầu nhưng có thể phối hợp với tụ cầu vàng, xảy ra trên cơ địa suy giảm miễn dịch, người già, người mắc bệnh mạn tính.
- Thời tiết nóng ẩm, vệ sinh kém.
- Tình trạng miễn dịch kém như HIV, ghép tạng, đái tháo đường.
- Bệnh nhân đang điều trị ung thư bằng hóa trị hay xạ trị
- Hoặc bệnh nhân sử dụng các thuốc làm suy giảm miễn dịch như corticosteroid.
Chốc thường gặp ở trẻ em, bé trai nhiều hơn bé gái. Ở người lớn, có thương tổn chốc khi miễn dịch kém. Bệnh hay gặp vào mùa hè, phổ biến ở các nước đang phát triển, điều kiện sống thiếu vệ sinh, dân cư đông. Chốc hay gặp sau một số bệnh da như viêm da cơ địa, ghẻ, thủy đậu, vết đốt do côn trùng, bỏng nhiệt, viêm da.
Triệu chứng lâm sàng
Chốc hay gặp ở vùng da hở như mặt, tay, chân, nhưng cũng gặp ở thân mình và các phần khác của cơ thể. Bệnh xuất hiện với một thương tổn đơn độc hoặc nhiều thương tổn. Người bệnh có thể sốt, mệt mỏi, nổi hạch.
- Chốc không có bọng nước thường bắt đầu là một dát hồng, tiến triển thành mụn nước, bọng nước hóa mủ nhanh, mau chóng dập vỡ để lại các vết xước đóng vảy tiết màu vàng mật ong. Khi vảy tiết bong ra để lại nền da đỏ ẩm, khi lành để lại dát thâm. Nếu không được điều trị, bệnh có thể tự lành sau 2-4 tuần mà không có sẹo. Thương tổn có thể lan rộng ra các vùng khác do tự lây nhiễm, do cào gãi. Bất kỳ vùng da nào trên cơ thể đều có thể bị nhưng mặt và các chi hay bị nhất. Thương tổn có thể ngứa nhẹ hoặc không có triệu chứng, có hoặc không có quầng đỏ bao quanh. Hạch ngoại vi thường to. Bệnh nhân có thể có chấn thương nhẹ, côn trùng đốt, ghẻ, thủy đậu, viêm da cơ địa tại vị trí bị chốc.
- Chốc loét bắt đầu giống như chốc không bọng nước nhưng tiến triển thành những vết loét hoại tử lõm giữa, chậm lành, để lại sẹo.
- Chốc bọng nước khởi phát với mụn nước nhỏ, lớn dần thành bọng nước. Bọng nước nông, dễ vỡ, kích thước nhỏ hoặc lớn, chứa dịch vàng, trong, sau chuyển sang vàng đậm, vỡ trong 1 đến 3 ngày, để lại viền da mỏng xung quanh dát đỏ ẩm ướt, khi lành không có sẹo. Xung quanh bọng nước có thể có quầng đỏ hoặc không.Thương tổn hay gặp ở mặt, thân mình, các chi, mông, sau đó lan ra các đầu xa do tự lây nhiễm. Khác với chốc không bọng nước, chốc bọng nước có thể có thương tổn ở niêm mạc má, ít lây hơn, hạch vùng không to.
- Trong trường hợp nặng có thể kèm theo sốt, nổi hạch bạch huyết vùng, tiêu chảy, mệt mỏi, kém ăn.( thường gặp trong chốc có bọng nước).
Các biến chứng của chốc
- Sốt tinh hồng nhiệt (Scarlet fever)
- Hội chứng bong vảy da do tụ cầu
- Viêm tủy xương
- Nhiễm trùng huyết
- Vảy nến thể giọt
- Viêm quầng
- Viêm mô bào
- Hồng ban đa dạng
- Mày đay
Chẩn đoán
Chẩn đoán chốc chủ yếu dựa vào các đặc điểm lâm sàng như đã mô tả ở trên. Ngoài ra, có thể làm một số xét nghiệm như nhuộm soi, nuôi cấy vi khuẩn, công thức bạch cầu (có tăng bạch cầu trung tính), mô bệnh học.
- Chốc không bọng nước: có tụ cầu gram dương, mụn mủ chứa bạch cầu trung tính trong thượng bì, xâm nhập viêm dày đặc ở trung bì nông.
- Chốc bọng nước: thượng bì bị tách ở lớp hạt mà không có hiện tượng viêm, không có vi khuẩn, có hiện tượng ly gai, xâm nhập viêm nhẹ ở trung bì nông. Hình ảnh mô bệnh học giống pemphigus vảy lá.
- Chốc loét: vết loét sâu, có cầu khuẩn bắt màu gram trong trung bì.
Chẩn đoán phân biệt
Chốc cần phân biệt với các bệnh lý sau:
- Thủy đậu
- Hội chứng bong vảy do tụ cầu
- Ghẻ
- Nhiễm Herpers
- Bệnh da bọng nước tự miễn
Điều trị chốc
Điều trị bệnh chốc theo các bước như sau:
- Rửa thương tổn, nhẹ nhàng loại bỏ vảy tiết
- Dùng các thuốc sát trùng (povidone iodine, hydrogen peroxide, chlorhexidine) hoặc mỡ kháng sinh bôi tại chỗ (acid fusidic, mupirocin).
- Che phủ vùng da thương tổn
- Nếu chốc lan rộng có thể sử dụng kháng sinh toàn thân (flucloxacillin, cefuroxim).
Phòng ngừa bệnh tái phát
- Dùng mỡ kháng sinh bôi lỗ mũi
- Dùng sữa tắm diệt khuẩn
- Điều trị các nguồn nhiễm khuẩn
Đề phòng lây bệnh cho người khác
- Tránh tiếp xúc gần gũi với người khác
- Cho trẻ nghỉ học cho tới khi vảy tiết đã khô
- Dùng khăn mặt riêng
- Thay quần áo và giặt hàng ngày