Tìm hiểu về MỤN TRỨNG CÁ

Trứng cá là một bệnh của nang lông tuyến bã được biểu hiện với nhiều hình thái tổn thương đa dạng như  nhân, sẩn, mụn mủ, cục, nang trứng cá. Bệnh thường gặp ở tuổi thanh thiếu niên và có thể tiến triển kéo dài tới tuổi trưởng thành. Bệnh trứng cá nếu không được điều trị kịp thời, phù hợp có thể để lại sẹo vĩnh viễn gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống.

Biểu hiện lâm sàng

Tổn thương mụn trứng cá được chia thành hai nhóm chính là tổn thương viêm và không viêm.

-Tổn thương không viêm: Bao gồm các mụn nhân

  • Nhân mở (nhân đầu đen): nhân có màu đen do hiện tượng oxy hóa các chất sừng keratin. Những nốt đen nổi cao hơn mặt da và có thể thoát ra ngoài.
  • Nhân kín (nhân đầu trắng): gồm các nhân có màu trắng hơi nhô cao hơn mặt da, đôi khi khó phát hiện. Thương tổn có thể biến mất hoặc biến thành mụn đầu đen.

-Tổn thương viêm: bao gồm tổn thương có biểu hiện nóng, đỏ, đau

  • Mụn mủ: đường kính tổn thương dưới 5mm, chứa đầu mủ trắng hoặc vàng ở Phòng Khám nền đỏ
  • Sẩn: sẩn đỏ ở vị trí nang lông, không có mủ, đường kính < 5mm
  • Cục: sẩn đỏ không chứa mủ, đường kính > 5mm, ấn chắc, đau do tổn thương viêm sâu hơn xuống trung bì.
  • Nang: tổn thương tạo thành do phản ứng viêm gây hoại tử, lòng tổn thương chứa dịch mủ, sền sệt lẫn máu, đường kính tổn thương >5 mm, các tổn thương có thể tập hợp lại thành ổ mủ lớn, thông với nhau. 

-Các tổn thương khác như ban đỏ sau viêm, tổn thương tăng sắc tố sau viêm.

-Tổn thương sẹo: bao gồm sẹo lõm, sẹo quá phát, sẹo lồi.

Các thể lâm sàng trứng cá

Trứng cá thông thường (Acne Vulgaris)

  • Là thể rất phổ biến ở cả hai giới đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Các tổn thương khu trú đặc biệt ở vùng da mì như mặt (má, trán, cằm), ở vùng giữa ngực, lưng, vai. Đôi khi nhân trứng cá ở vành tai, bọc ở ống tai, màng nhĩ và đặc biệt gặp tổn thương u, cục, nang ở cổ, gáy. Tổn thương rất đa dạng: Nhân trứng cá, sẩn nang lông, sẩn mụn, mụn mủ, u viêm tấy, áp xe trung bì và hạ bì. Các thương tổn này không phải thường xuyên kết hợp với nhau và có đầy đủ trên một bệnh nhân
  • Tiến triển của bệnh trứng cá thông thường có khuynh hướng giảm và khỏi một cách tự nhiên sau tuổi 20 đến 30 mà không cần điều trị. Các yếu tố như khí hậu, stress, thuốc bôi tại chỗ hoặc toàn thân, các chất hoá học và các nguyên nhân bên ngoài có thể làm nặng thêm bệnh trứng cá ban đầu.

Trứng cá đỏ (Acne Rosacea)

  • Trứng cá đỏ thường gặp ở người da trắng từ 30 đến 50 tuổi. Đa số gặp ở nữ giới, nhất là người có cơ địa da dầu. Tổn thương trứng cá đỏ thường ở vùng giữa mặt, tiến triển qua nhiều giai đoạn.Trên nền da đỏ xuất hiện từng đợt sẩn mủ, đôi khi nổi cộm giống như u hạt. Sau nhiều đợt tiến triển, nhất là ở nam giới thường có phản ứng phì đại, xơ hóa ở vùng mũi tạo thành mũi sư tử. È nhiễm khuẩn cũng đã được đề cập đến, đặc biệt là vai trò của Propionibacterium acnes và Demodex folliculorum

Trứng cá mạch lươn (Acne congobata)

  • Bệnh gặp chủ yếu ở đàn ông, bắt đầu sau tuổi dậy thì và tiếp tục kéo dài hơn trong những năm về sau. Thương tổn thường ở ngực, mặt, lưng, vai và cổ. Ngoài ra còn thấy ở mông và tầng sinh môn. Tổn thương bắt đầu bằng mụn ở nang lông, tiến triển to dần và loét rất đặc biệt. Các ổ mủ nông và sâu, có khi rất to, cục viêm thành cụm 2 – 3 cái, đi vằn vèo thành hang hốc với nhiều lỗ dò, nhiều cầu da, nhiều đảo xơ. Bệnh tiến triển lâu dài, dai dẳng khó chữa

Trứng cá sẹo lồi (Acne keloidalis)

  • Loại trứng cá này chủ yếu gặp ở đàn ông, khu trú ở gáy và vùng rìa tóc. Đầu tiên xuất hiện các thương tổn viêm nang ở gáy, sắp xếp thành đường thẳng hoặc vằn vèo. Dần dần thương tổn tiến triển thành nhiều củ xơ hoặc dải xơ phì đại, gờ lên mặt da trông giống như sẹo lồi, trên bề mặt có một vài mụn riêng rẽ. Tiến triển lâu dài cuối cùng tự xẹp thành sẹo phẳng và trụi tóc vĩnh viễn

Trứng cá kê hoại tử (Acne miliaris necrotica)

  • Bệnh thường gặp ở nam giới, thương tổn khu trú một cách đối xứng ở trán, ở thái dương, rìa tóc. Hoại tử là đặc điểm của loại trứng cá này và nguyên nhân có thể do sự mẫn cảm của người bệnh đối với vi khuẩn. Đầu tiên là sẩn nang lông màu hồng, thường có ngứa và nhanh chóng biến thành mụn mủ mầu ngả nâu, bám rất chắc, xung quanh có một bờ viêm tấy mầu hồng, dưới vẩy là một ổ loét nhỏ, sau để lại sẹo lõm tồn tại vĩnh viễn

Trứng cá sét đánh(Acne fulminans)

  • Là thể hiếm gặp của trứng cá nang nặng, xuất hiện đột ngột ở bệnh nhân nam tuổi thanh thiếu niên. Tổn thương là các cục lan rộng, nhanh, nặng. Sau biến thành từng mảng viêm nặng, hoá mủ, nhanh chóng để lại vết loét không gọn. Vị trí chủ yếu ở lưng, ngực, nếu ở mặt thường là nhẹ hơn.Thể này cần có phương pháp điều trị đặc biệt

Trứng cá do thuốc (Acne Itrogenic)

  • Nhiều loại thuốc có thể gây nên thương tổn dạng trứng cá, khó có thể phân biệt với trứng cá thực sự. Tìm được nguyên nhân do thuốc rất khó, tuy nhiên có thể dựa vào đặc điểm lâm sàng, điều kiện xuất hiện và tiến triển của bệnh để nghĩ đến trứng cá do thuốc. Các loại thuốc và hoá chất có thể gây trứng cá nh­: Các hormon Androgen, ACTH, Testosterone, Progesterone… các Halogen như muối Iode, Brome, các thuốc chống lao, thuốc chống động kinh, thuốc hướng thần, thuốc chống phân bào, Corticosteroid

Trứng cá nghề nghiệp (Occupational Acne)

  • Nhiều loại dầu hắc Ýn có thể gây thương tổn dạng trứng cá. Thương tổn loại này gần giống như trứng cá thường: nhân, sẩn, mụn mủ và nang. Dấu hiệu phân biệt của trứng cá nghề nghiệp là vị trí phát tổn thương, tuổi bệnh nhân và lịch sử có tiếp xúc với hoá chất.
  • Bệnh thường gặp ở những công nhân, thợ sửa chữa máy do tiếp xúc với dầu thô, sáp và các loại carbure hydro no hoặc không no. Tổn thương thường tương ứng với vị trí tiếp xúc của da và thấy ở cánh tay, đùi, thân mình, đặc biệt ở những công nhân quần áo bị ngấm dầu mỡ, vì vậy gọi là trứng cá hạt dầu.

Trứng cá trước tuổi thành niên (Preadolescent acne)

Thể này được phân làm 3 loại đó là:

  • Trứng cá sơ sinh (Neonatal acne): Xuất hiện trong 4 tuần đầu của thời kỳ sơ sinh và trẻ trai hay bị hơn trẻ gái. Tổn thương có thể tồn tại vài tuần, bệnh tự khỏi không để lại vết tích gì.
  • Trứng cá trẻ em hay trứng cá tuổi ấu thơ (Infantile acne): Xuất hiện từ tháng thứ 2 và có thể là do trứng cá sơ sinh tồn tại dai dẳng. Loại trứng cá này có thể kéo dài thành trứng cá tuổi thiếu niên hoặc thành trứng cá tuổi thành niên.
  • Trứng cá tuổi thiếu niên (Childhood acne): Nguyên nhân từ trứng cá trẻ em tồn tại dai dẳng. Yếu tố gia đình có vai trò quan trọng.

Trứng cá trước tuổi thành niên thường do nhiều yếu tố gây nên: Trứng cá sơ sinh và trứng cá trẻ em là kết quả từ hormon của mẹ truyền sang hoặc là do hormon Testosterone tiết ra nhiều từ tinh hoàn ở trẻ trai thời kỳ sơ sinh (10 tuần đầu sau khi sinh) kích thích tuyến bã. Mặt khác sự biến đổi về số lượng và chất lượng của Androgen tổng hợp của da hoặc sự tăng nhạy cảm của cơ quan ở da có thể cũng là nguyên nhân của loại trứng cá này

Một số dạng tổn thương của Mụn trứng cá

Trứng cá mũi sư tử (Rhinophyma)

  • Do tuyến bã hai bên mũi bài tiết rất nhiều, kèm theo thói quen nặn trứng cá của bệnh nhân làm cho tổ chức tuyến bã bị phì đại, quá sản thành u, lỗ chân lông giãn rộng làm cho mũi bị biến dạng.

Các thể lâm sàng khác

Ngoài những thể lâm sàng thường gặp ở trên, người ta còn nêu lên một số thể khác, mỗi loại đều có nét đặc thù riêng của nó.

  • Trứng cá do mỹ phẩm (Acne cosmetica): Bệnh thường gặp ở phụ nữ sử dụng nhiều kem xoa mặt, kem chống nắng.
  • Trứng cá trầy xước (Excoriated Acne): Loại này thường gặp ở những cô gái trẻ do bệnh nhân có yếu tố tâm lý hay nặn bóp, cào xước thương tổn kết quả để lại là các vết thâm, sẹo teo da.
  • Trứng cá do yếu tố cơ học (Acne Mechanica): Do trà xát, nặn bóp làm cho bệnh nặng hơn.
  • Trứng cá vùng nhiệt đới (Tropical Acne): Bệnh xuất hiện ở những vùng nhiệt đới vào mùa hè khi thời tiết nóng ấm.
  • Trứng cá mùa hè (Acne Aestivalis)
  • Trứng cá do chất tẩy rửa (Acne Detergicans)
  • Trứng cá trước chu kỳ kinh nguyệt: Tổn thương là những sẩn mủ, thường từ 5 đến 10 thương tổn, xuất hiện trước khi có kinh 1 tuần. Thường là do ảnh hưởng của LH ở đỉnh cao kích thích tổ chức đệm của buồng trứng tiết Androgen. Dùng viên tránh thai có Estrogen sẽ làm giảm bớt trứng cá loại này…

Nguyên nhân của bệnh trứng cá

Nguyên nhân của bệnh trứng cá cũng khá phức tạp, có liên quan tới nhiều yếu tố như nội tiết, tiêu hoá đặc biệt là tuyến sinh dục…Vai trò của các tạp khuẩn trên da, trong đó tụ cầu, liên cầu và nhất là Corinebacterium cũng được đề cập đến. Các vi khuẩn này thường ở trong nang lông, có khả năng thuỷ phân  chất bã thành acid béo, gây kích thích và gây viêm tổ chức nang lông.

Ngoài ra, trứng cá có thể do dị ứng một số thức ăn, thuốc (Bromua, corticosteroid, thuốc bôi goudon…) hoặc do tiếp xúc với một số hoá chất (Dầu, mỡ, nhựa đường…) hoặc do thiếu vitamin B2.

Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây bệnh, nhưng đại đa số các tác giả đều nêu ra 3 cơ chế chính gây nên trứng cá:

  • Sự tăng tiết bã nhờn.
  • Sự ứ đọng chất bã.
  • Sự viêm nhiễm.

Sự tăng tiết bã nhờn

Sự hoạt động của tuyến bã có sự biến đổi liên quan với các hormon, đặc biệt là hormon sinh dục nam và trong đó Testosteron là hormon có hiệu lực chủ yếu ở da đối với tế bào tuyến bã. Testosteron có tác dụng kích thích sự phát triển và bài tiết chất bã, đồng thời làm giãn rộng và làm tăng thể tích tuyến bã, nhất là các tuyến bã ở mặt. Vì vậy, người ta coi trứng cá là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của tuổi thành niên khi cơ thể nam có sự tăng tiết Testosteron.

Sự ứ đọng chất bã

Sự sản xuất quá mức các chất bã kết hợp với dầy sừng ở phễu nang lông gây nên hiện tượng ứ đọng chất bã. Nguyên nhân của sự dầy sừng này là do tác dụng kích thích của chất bã lên thành nang lông và sự thay đổi trong bản mẫu của quá trình sừng hoá trong lòng nang lông ,. Ngoài ra, một số yếu tố ngoại cảnh như nóng ẩm, khói bụi … hay các chất như sinh diêm, mỹ phẩm có nhiều chất béo tạo ra sự ứ đọng chất bã, làm bít tắc lỗ chân lông.

Sự viêm nhiễm

Các chất bã bài tiết lên mặt da đã tạo ra một màng mỡ trên da. Tại đây xẩy ra phản ứng thuỷ phân Triglyerid. Chất này thu hút các vi khuẩn nằm ở phần dưới cổ nang lông tuyến bã tiết ra men lipare hyualuronidase, proteases và licitinase phân giải chất mỡ béo thành acid béo tự do. Những men này ăn mòn thành nang lông, đông thời những yếu tố có tính chất hoá ứng động bị khuyếch tán qua thành nang lông vào trung bì, thu hút bạch cầu đa nhân trung tính xâm nhập vào nhân trứng cá để thực bào các Propionibacterium Acnes và giải phóng các Enzym của lyzosom. Những chất này cũng tham gia làm vỡ thành nang lông. Tóm lại, quá trình viêm là do một phản ứng đối với dị vật và phản ứng độc tế bào của chất bã

Cơ chế hình thành mụn trứng cá

 

Điều trị bệnh trứng cá

Mục đích của điều trị trứng cá là nhằm giải quyết những vấn đề sau:

  • Giảm bít sự tiết bã nhờn.
  • Ngăn chặt sự ứ đọng chất bã.
  • Hạn chế quá trình viêm.
  • Việc sửa chữa sẹo chỉ tiến hành khi bệnh trứng cá đã ổn định.

* Các thuốc sử dụng trong điều trị trứng cá:

– Thuốc làm giảm da dầu:

  • Thuốc bôi tại chỗ: Thuốc kháng Androgen về mặt lý thuyết có tác dụng nhất định nhưng thực tế điều trị Ít có kết quả. Do vậy, thuốc đó chỉ được coi là thuốc phụ, Ít người dùng.
  • Điều trị bằng hormon toàn thân: Ostrogen, acetate de cyproteron, Spironolactone.
  • Isotrétinoine: Có tác dụng làm teo tuyến bã, do đó là thuốc được lựa chọn điều trị vững bền hơn so với các thuốc khác. Nhưng giá thành cao, phải dùng lâu dài và đề phòng tai biến.

– Ngăn chặn sự căng ứ chất bã (chống sừng hoá cổ tuyến bã):

  • Vitamin A acid (Trétinoine) tại chỗ.
  • Isotrétinoine.
  • Peroxyde de benzoyle.
  • Adapalene: Là dẫn xuất của Acid naphthoic, có tác dụng giống Trétinoine nhưng Ít tác dụng phụ hơn. Sử dụng dưới dạng gel 0.1% bôi tại chỗ ,.

– Thuốc hạn chế viêm:

  • Peroxyde de benzoyle.
  • Tiêm Corticoid vào trong nang.
  • Điều trị lạnh đối với tổn thương dạng cục nang.

– Chống nhiễm trùng:

  • Kháng sinh tại chỗ: Erythromycine, Clindamycine.
  • Kháng sinh uống: Tetracycline, Erythromycine…

Tin liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *